Hiệp định EVFTA

Có nhiều nguyên nhân khiến các doanh nghiệp trong nước gặp trở ngại khi tận dụng EVFTA để đẩy mạnh xuất khẩu. Lực cản lớn nhất là nguồn nhân lực còn yếu, thiếu.

Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA) bắt đầu được thực thi vào đúng giai đoạn bất ổn của kinh tế thế giới do đại dịch Covid-19, gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu, khủng hoảng năng lượng và lương thực, lạm phát tăng cao, thắt chặt chi tiêu... Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường 27 nước EU không hề sụt giảm, điều này cho thấy EVFTA là đòn bẩy hiệu quả cho thương mại hai chiều.

Từ khi EVFTA được đưa vào thực thi, Việt Nam vươn lên thành đối tác thương mại lớn nhất của EU trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và đứng vị trí thứ 11 trong số các nước cung ứng hàng hóa lớn nhất vào EU. Ngược lại, EU cũng là đối tác thương mại lớn thứ ba của Việt Nam.

Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để tận dụng tối đa lợi ích từ EVFTA
Từ khi EVFTA được đưa vào thực thi, Việt Nam vươn lên thành đối tác thương mại lớn nhất của EU. Ảnh Vietnam+

Theo Tổng cục Hải quan Việt Nam, năm 2022, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa sang EU đạt 46,83 tỷ USD, tăng 16,7% so với năm trước, chiếm 12,6% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam. Chỉ tính riêng hai nền kinh tế hàng đầu EU là Đức và Pháp, năm ngoái, khối lượng thương mại của Việt Nam với Đức tăng đáng kể và đạt mức cao kỷ lục 18,1 tỷ euro, trong đó Việt Nam xuất siêu là 11,3 tỷ euro (12,27 tỷ USD). Xuất khẩu của Việt Nam sang Pháp tăng 18,8% so với năm 2020, lên hơn 7,27 tỷ euro (7,97 tỷ USD), mức cao kỷ lục từ trước tới nay.

Không thể phủ nhận những tác động đáng kể và tích cực mà Hiệp định EVFTA mang lại suốt 3 năm qua, song trong quá trình khai thác tối đa hiệu quả của hiệp định, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn gặp một số thách thức, đặc biệt trong bối cảnh tình hình quốc tế dự báo vẫn diễn biến phức tạp, khó lường.

Thực tế 3 năm thực thi Hiệp định EVFTA cho thấy, thương hiệu Việt Nam vẫn chưa được biết đến nhiều trên thị trường EU. Tỷ trọng hàng Việt Nam trong nhập khẩu của EU hiện chỉ chiếm khoảng 2%.

Một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như rau quả, hải sản, gạo dù tăng trưởng tốt song chưa đạt hiệu quả như mong đợi, chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong tổng giá trị nhập khẩu các mặt hàng này của EU. Thậm chí, có mặt hàng còn chưa có dấu hiệu tăng trưởng sau khi EVFTA có hiệu lực, như giấy, các sản phẩm từ giấy và hạt điều.

Phân tích nguyên nhân, các chuyên gia kinh tế trong nước cũng như đại diện các Thương vụ Việt Nam cho rằng, EU là một thị trường khó tính, khách hàng đặt ra những yêu cầu cao về chất lượng sản phẩm, trong đó có nhiều quy định bắt buộc về vệ sinh an toàn thực phẩm, chất lượng cùng nhiều hàng rào kỹ thuật.

Có rất nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến trở ngại cho việc các doanh nghiệp Việt Nam có thể tận dụng được EVFTA, trong đó nguyên nhân vô cùng quan trọng chính là lực cản về nguồn nhân lực, nguồn nhân lực này khó khăn ở cả cấp độ Trung ương, cấp độ tỉnh, thành và cấp độ doanh nghiệp” - bà Nguyễn Thị Lan Phương - Phó Trưởng phòng WTO và FTA, Vụ Chính sách thương mại đa biên, Bộ Công Thương chia sẻ.

Dẫn chứng cụ thể, bà Lan cho biết, Vụ Chính sách thương mại đa biên là đơn vị chủ trì tham gia việc đàm phán, ký kết, phê chuẩn và thực thi các Hiệp định thương mại tự do (FTA), nhưng đơn vị chuyên trách cũng chỉ có 10 nhân sự thực hiện tất cả các công việc, từ quá trình đàm phán, ký kết, phê chuẩn cho đến khi thực thi. Khối lượng công việc rất lớn nên đòi hỏi một lực lượng chuyên trách phải nhiều hơn nữa để có thể đủ sức hỗ trợ cho các tỉnh, thành và doanh nghiệp thực thi các FTA.

Còn ở địa phương, mỗi tỉnh thành chỉ có 5 - 7 nhân sự phụ trách về FTA, thậm chí có những tỉnh, thành chỉ được 1-2 nhân sự và bản thân những nhân sự đó phải kiêm nhiệm rất nhiều công việc khác nhau.

Ở góc độ doanh nghiệp, là công ty có hoạt động xuất khẩu trực tiếp sang thị trường EU và tận dụng Hiệp định EVFTA, bà Lê Thị Hằng - Phó Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Cà phê Detech cho biết, doanh nghiệp cũng gặp phải những khó khăn về tìm kiếm các chuyên gia để đào tạo cho đội ngũ nhân sự của bộ phận xuất nhập khẩu. Thực tế là trong quá trình làm việc, bộ phận nhân sự chỉ có thể nắm bắt được về các chuyên môn thực hiện các hợp đồng, giao dịch, tư vấn cho khách hàng. Còn cụ thể về kinh nghiệm thực tế từ chuyên gia của các FTA hay EVFTA vẫn đang vướng.

Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để tận dụng tối đa lợi ích từ EVFTA
Bộ Công Thương phối hợp tổ chức khai giảng Lớp đào tạo cơ bản để trở thành chuyên gia về FTA cho các cơ quan quản lý Nhà nước, doanh nghiệp và hiệp hội ngành hàng năm 2023

Để khắc phục những rào cản trên, mới đây, Bộ Công Thương phối hợp với Trường Đào tạo bồi dưỡng cán bộ công thương Trung ương và Trường Đại học Ngoại Thương tổ chức khai giảng Lớp đào tạo cơ bản để trở thành chuyên gia về FTA cho các cơ quan quản lý Nhà nước, doanh nghiệp và hiệp hội ngành hàng năm 2023.

Đây là lớp đầu tiên trong chuỗi khóa đào tạo cơ bản để trở thành chuyên gia về các Hiệp định FTA. Học viên tham gia lớp là những cán bộ, chuyên viên phụ trách công tác hội nhập kinh tế quốc tế, các hoạt động liên quan đến thực thi các FTA, trong đó có EVFTA tại các cơ quan quản lý, công ty tư vấn thực thi FTA, viện nghiên cứu, cơ sở đào tạo; các cán bộ, nhân viên thực hiện nghiệp vụ xuất, nhập khẩu tại các doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng...

Trong chương trình lớp đào tạo, các học viên sẽ được các chuyên gia từ các Bộ: Công Thương, Lao động, Thương binh và Xã hội, Tổng cục Hải quan... và chuyên gia quốc tế phổ biến, hướng dẫn những thông tin cơ bản, chủ yếu về các FTA mà Việt Nam đã ký kết, thực thi hay đang đàm phán và những nội dung liên quan.

Đưa ra các giải pháp về phía doanh nghiệp, bà Hồ Ngọc Linh - Phó Tổng giám đốc Công ty TNHH Tư vấn Đầu tư và Tận dụng Hiệp định thương mại tự do (KTPC) cho rằng, các doanh nghiệp có thể chủ động hợp tác, đặt hàng với các trường đại học, các cơ sở đào tạo để đào tạo những chuyên gia đáp ứng những yêu cầu cụ thể về phát triển bền vững, logistics, tìm kiếm thị trường... có thể đưa vào những chương trình đào tạo đại học hoặc khóa học cấp chứng chỉ.

Bên cạnh việc đầu tư đặt hàng đào tạo, doanh nghiệp cũng có thể dành ra một khoản chi phí vận hành để thuê một bên đơn vị nghiên cứu thị trường hoặc cung cấp nhân sự nghiên cứu đánh giá rủi ro giúp doanh nghiệp về xu hướng đầu tư, tìm kiếm cơ hội ở các thị trường phù hợp với quy mô sản xuất, nguồn vốn, nguồn hàng của doanh nghiệp…

Bích Ngọc, Văn phòng BCĐLNKT