Ngày 20/11/2025 Ban Chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về kinh tế phối hợp với Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp tổ chức Hội nghị với chủ đề “Những vấn đề mới địa phương và doanh nghiệp cần lưu ý”, tham dự và chủ trì hội nghị có ông Nguyễn Thành Diệu, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân, Trưởng ban Chỉ đạo Hội nhập quốc tế tỉnh Đồng Tháp, ông Lương Văn Tự, Nguyên thứ trưởng Bộ Thương mại, Trưởng đoàn đàm phán Việt Nam gia nhập WTO, Chủ tịch Hiệp hội Thông tin, tư vấn kinh tế thương mại Việt Nam, ông Phạm Trung Nghĩa, Phó Vụ trưởng, Phó Chánh Văn phòng Ban Chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế và bà Võ Phương Thuỷ, Giám đốc Sở Công Thương, Phó Trưởng ban Thường trực, Ban Chỉ đạo Hội nhập quốc tế tỉnh Đồng Tháp.
ông Nguyễn Thành Diệu, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân, Trưởng ban Chỉ đạo Hội nhập quốc tế tỉnh Đồng Tháp
Phát biểu khai mạc ông Nguyễn Thành Diệu cho biết nền kinh tế Việt Nam đang hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới. Đến nay, Việt Nam đã và đang tham gia 20 Hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương và đa phương với hầu hết các nền kinh tế trên thế giới trong đó, 16/20 FTA đã có hiệu lực.
Năm 2025, cùng với cả nước phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh nói chung và xuất khẩu nói riêng diễn ra trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Đặc biệt, chính sách thuế quan của Tổng thống Mỹ Donald Trump đã tác động sâu rộng tới nền kinh tế thế giới. Theo đó, Đồng Tháp đã triển khai kịp thời nhiều chương trình, kế hoạch, các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp trong việc tìm kiếm thị trường, tận dụng được các Hiệp định thương mại tự do để thúc đẩy xuất khẩu; dự kiến năm 2025, kim ngạch xuất khẩu của Tỉnh ước đạt 9,2 tỷ USD, đến nay hàng hoá của Tỉnh đã tiếp cận được trên 150 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới.
Bên cạnh những kết quả tích cực từ xuất khẩu, việc tận dụng nắm bắt cơ hội ưu đãi từ các Hiệp định thương mại tự do mang lại trong quá trình triển khai thực hiện, cũng như việc nghiên cứu để hiểu và tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức trong từng Hiệp định đối với cộng đồng doanh nghiệp cũng như các cấp, các ngành trong Tỉnh vẫn còn nhiều hạn chế. Việc triển khai những thông tin về hội nhập, về một số Hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam đã tham gia, cũng như việc cụ thể hoá tinh thần Nghị quyết 59-NQ/TW của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế trong tình hình mới sẽ giúp các cơ quan quản lý nhà nước, cộng đồng doanh nghiệp Tỉnh nhà nhận thức đầy đủ hơn về tính đa dạng, phức tạp cũng như những cơ hội, thách thức của từng Hiệp định để từ đó có thể chủ động tham gia hội nhập, nắm bắt cơ hội, xây dựng chiến lược kinh doanh phù hợp để tận dụng ưu đãi, mở rộng thị trường; tận dụng các lợi thế của địa phương để vượt qua các khó khăn, thách thức trong tiến trình hội nhập.
Các đại biểu tham dự hội nghị
Nhận thức được tầm quan trọng và tính cấp thiết của việc cập nhật thông tin, chính sách, cũng như tìm kiếm các giải pháp thiết thực để hỗ trợ doanh nghiệp, hôm nay được sự hỗ trợ tích cực từ Ban Chỉ đạo Liên ngành hội nhập quốc tế về kinh tế, Tỉnh đã phối hợp tổ chức “Hội nghị về hội nhập kinh tế quốc tế: Các vấn đề mới địa phương và doanh nghiệp cần lưu ý” để các cơ quan quản lý nhà nước cũng như cộng đồng doanh nghiệp Tỉnh nhà nắm bắt rõ hơn về xu hướng mới của hội nhập kinh tế quốc tế, về tình hình thị trường, về các rào cản thương mại,….để làm thế nào tận dụng những cơ hội từ các FTA mang lại, kịp thời chủ động kế hoạch sản xuất kinh doanh phù hợp, góp phần đưa hoạt động xuất khẩu của Tỉnh nói riêng và cả nước nói chung phát triển bền vững.
Tại hội nghị các đại biểu đã được nghe các chuyên gia kinh tế đến từ Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp và Môi trường chia sẽ một số chuyên đề về hội nhập kinh tế quốc tế, phát biểu taị hội nghị ông Lương Văn Tự, Nguyên thứ trưởng Bộ Thương mại, Trưởng đoàn đàm phán Việt Nam gia nhập WTO, Chủ tịch Hiệp hội Thông tin, tư vấn kinh tế thương mại Việt Nam chia sẽ nội dung “Xuất khẩu nông lâm thủy sản của tỉnh Đồng Tháp trong tình hình mới”, theo ông Tự Đồng Tháp là tỉnh có diện tích lớn, dân số đông và tiềm năng xuất khẩu nông lâm thủy sản, là tỉnh dẫn đầu xuất khẩu trong các tỉnh Tây Nam Bộ đề xuất một số khuyến nghị cho tỉnh Đồng Tháp: Nâng cao chất lượng hàng hóa để tăng giá trị gia tăng của sản phẩm bằng đầu tư công nghệ chế biến; Nâng cao chất lượng của 1100 sản phẩm OCOP từ 3 sao lên 5 sao và tiến tới đạt tiêu chuẩn Quốc tế để xuất khẩu; Nâng cấp và thực hiện nghiêm ngặt các tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm của các nước xuất khẩu, thực hiện truy xuất nguồn gốc; Đa dạng thị trường không tập trung vào một số thị trường. Mở rộng thị trường xuất khẩu sang Châu Phi (chú ý kỹ năng thanh toán). Thị trường các nước Đông Âu, xây dựng thương hiệu quảng bá sản phẩm; Các doanh nghiệp áp dụng rộng rãi thương mại điện tử để đẩy nhanh việc thu thập thông tin, tốc độ giao dịch và giảm chi phí giao dịch thông qua trang điện tử giới thiệu sản phẩm và hình ảnh doanh nghiệp mình.
Ông Lương Văn Tự, Nguyên thứ trưởng Bộ Thương mại, Trưởng đoàn đàm phán Việt Nam gia nhập WTO, Chủ tịch Hiệp hội Thông tin, tư vấn kinh tế thương mại Việt Nam
Về những xu thế mới của hội nhập kinh tế quốc tế, đánh giá tác động và các khuyến nghị về chính sách hội nhập kinh tế quốc tế trong thời gian tới ông Phạm Trung Nghĩa, Phó Vụ trưởng, Phó Chánh Văn phòng Ban Chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế cho biết bối cảnh thương mại toàn cầu hiện nay đang chịu tác động đồng thời của bốn xu hướng lớn, mang tính định hình lại “luật chơi” quốc tế và vị thế của mỗi quốc gia.
ông Phạm Trung Nghĩa, Phó Vụ trưởng, Phó Chánh Văn phòng Ban Chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế
Thứ nhất, cạnh tranh giữa các cường quốc và căng thẳng khu vực làm gia tăng xu hướng phân mảnh địa chính trị và cả phân mảnh thương mại toàn cầu, buộc các nhà nhập khẩu và doanh nghiệp phải cân nhắc rủi ro an ninh và độ tin cậy của chuỗi cung ứng bên cạnh hiệu quả kinh tế. Với Việt Nam, bối cảnh trên kéo theo nhiều rủi ro và sức ép mới, nguy cơ bị cuốn vào các tranh chấp thương mại quốc tế ngày càng tăng, thể hiện qua việc nhiều mặt hàng xuất khẩu sang Hoa Kỳ như gỗ dán, thép và nhôm,… bị áp thuế đối ứng, đặc biệt là những sản phẩm sử dụng nguồn nguyên liệu đầu vào từ Trung Quốc. Bên cạnh đó là sự hình thành các khối công nghệ và chiến lược friend-shoring (chuyển dịch sản xuất về các nước đối tác tin cậy) có nguy cơ gây hạn chế khả năng tiếp cận công nghệ cao của Việt Nam - vốn đang phụ thuộc lớn vào nhập khẩu linh kiện và công nghệ từ nhiều nguồn khác nhau. Xu hướng chuyển dịch này đang thay thế động lực truyền thống thuần túy dựa trên lợi thế so sánh trước đây là chi phí rẻ, nhân công rẻ, môi trường đầu tư ưu đãi,…
Thứ hai, Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư đang thúc đẩy sự nổi lên của mô hình thương mại dựa trên dữ liệu, với khoảng 60% giao dịch được hỗ trợ bởi công nghệ số.
Thứ ba, yêu cầu về phát triển bền vững trở thành tiêu chuẩn thị trường bắt buộc: các quy định và tiêu chí môi trường–xã hội–quản trị (ESG), cơ chế điều chỉnh biên giới carbon của Liên minh Châu Âu (CBAM - sẽ đánh thuế carbon đối với tất cả hàng hóa nhập khẩu vào thị trường dựa trên cường độ phát thải khí nhà kính trong quy trình sản xuất tại nước sở tại) và các công cụ chính sách xanh khác đang chuyển từ khuyến khích sang điều kiện tiên quyết để tiếp cận thị trường. Việt Nam đã thể hiện cam kết mạnh mẽ bằng mục tiêu đạt phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050. Tuy nhiên, các ngành xuất khẩu chủ lực như thép, xi măng, dệt may, và thủy sản có cường độ phát thải cao và đang phải chịu sức ép lớn từ các tiêu chuẩn xanh mới. Bên cạnh đó, chi phí tuân thủ, đầu tư vào công nghệ sạch, hệ thống giám sát chuỗi cung ứng và chứng chỉ quốc tế tạo ra gánh nặng lớn cho doanh nghiệp, đặc biệt là các SMEs trong việc đầu tư công nghệ xanh (giảm phát thải, tiết kiệm năng lượng), hệ thống truy xuất nguồn gốc kỹ thuật số và chuyển đổi sang năng lượng tái tạo để tạo ra sản phẩm xanh, sạch, thân thiện với môi trường. Nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp và người tiêu dùng chưa đồng đều cũng cản trở việc triển khai đồng bộ các tiêu chuẩn về thương mại bền vững. Nhiều doanh nghiệp nhỏ vẫn coi bền vững chỉ là yêu cầu tuân thủ tối thiểu thay vì chiến lược phát triển.
Tuy nhiên, phải khẳng định và ghi nhớ rằng gắn kết thương mại với phát triển bền vững không còn là lựa chọn mà đã trở thành điều kiện bắt buộc để duy trì khả năng tiếp cận các thị trường quốc tế, đặc biệt với thị trường có tiêu chuẩn bền vững khắt khe như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản…
Hiện tại, ở cấp độ ngành: Nhiều ngành sản xuất chủ lực đã lồng ghép mục tiêu phát triển bền vững vào chiến lược phát triển của mình, tạo tiền đề quan trọng cho doanh nghiệp. Ở cấp độ doanh nghiệp, nhận thức về phát triển bền vững tăng cao: 60% doanh nghiệp Việt Nam đã có cam kết hoặc kế hoạch cam kết thực hành các tiêu chuẩn ESG. Các doanh nghiệp lớn đã bắt đầu ban hành chính sách nội bộ về bảo vệ người lao động, cộng đồng và môi trường, đặc biệt dưới tác động của các FTA thế hệ mới và xu hướng đầu tư xanh.
Đối với lĩnh vực nông sản: Chuyển dịch mạnh mẽ sang sản xuất hữu cơ, áp dụng các giải pháp ứng phó biến đổi khí hậu (ví dụ: mô hình sản xuất sầu riêng sạch, nhãn hiệu “Gạo Việt xanh phát thải thấp”). Xuất khẩu nông sản hữu cơ năm 2024 đạt 556 triệu USD/năm.
Đối với ngành thủy sản: Chuyển hướng nuôi trồng hiện đại, bền vững (nuôi biển) và triển khai các biện pháp chống khai thác IUU (bất hợp pháp, không báo cáo và không đúng quy định). Việt Nam có hơn 500 trang trại nuôi tôm và 100 trang trại nuôi cá tra đạt chứng nhận nuôi trồng bền vững (ASC).
Đối với ngành gỗ và sản phẩm từ gỗ: Tăng cường chuyển đổi sang sản phẩm bền vững, có chứng nhận FSC (Quản lý rừng bền vững) và gỗ rừng trồng để đáp ứng luật mới của Nhật Bản, Hoa Kỳ và EU.
Đối với ngành dệt may: Thực hiện chiến lược xanh hóa chuỗi sản xuất (ví dụ: Vinatex đo lường dấu chân carbon, May 10 thay thế nhiên liệu hóa thạch). Nhiều doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất sợi tái chế (SYRE, Sợi Thế kỷ…).
Thứ 4, sự giao thoa của các yếu tố này đang buộc chuỗi giá trị toàn cầu (GVCs) phải tái cấu trúc sâu sắc, dịch chuyển trọng tâm từ ưu tiên hiệu quả chi phí sang ưu tiên về an ninh, sức chống chịu và tính minh bạch.
+ Về Nghị quyết số 59-NQ/TW: Những thách thức nêu trên đặt ra yêu cầu cấp thiết đối với Việt Nam trong việc tìm kiếm và khai thác các động lực tăng trưởng mới, nhằm chuyển dịch từ mô hình tăng trưởng dựa trên chi phí sang mô hình dựa trên năng suất và đổi mới sáng tạo, đồng thời giải quyết triệt để những điểm nghẽn cấu trúc nội tại của nền kinh tế. Đây cũng chính là bước cụ thể hóa các chủ trương, định hướng lớn của Đảng và Nhà nước về phát triển và hội nhập trong giai đoạn mới, đặc biệt được thể hiện trong Nghị quyết số 59-NQ/TW năm 2025 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế trong tình hình mới. NQ59 xác định hội nhập kinh tế quốc tế đóng vai trò trung tâm của quá trình hội nhập và đề ra định hướng "Nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế phục vụ xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng và thúc đẩy chuyển đổi số". Như vậy, hội nhập kinh tế không chỉ tập trung vào việc mở rộng thị trường, thu hút đầu tư, mà còn phải thúc đẩy nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, khai thác tối đa các hiệp định thương mại tự do (FTA), tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu, và bảo vệ lợi ích quốc gia trong bối cảnh cạnh tranh địa chính trị, địa kinh tế hết sức gay gắt. Trong tình hình thế giới phức tạp hiện nay, với các thách thức từ biến đổi khí hậu, chuyển đổi số và cách mạng công nghiệp 4.0, hội nhập kinh tế quốc tế chính là động lực quan trọng để Việt Nam đạt mục tiêu tăng trưởng hơn 8% năm 2025 và tăng trưởng hai con số giai đoạn 2026-2030, như định hướng của Đảng và Chính phủ để cụ thể hoá NQ 59, Chính phủ cũng đã ban hành Nghị quyết 153/NQ-CP ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 59-NQ/TW, các Bộ ngành địa phương cũng đã có các Chương trình/Kế hoạch hành động với những nhiệm vụ cu thể thực hiện Nghị quyết số 153/NQ-CP.
Đối với các biện pháp an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật (SPS) của một số thị trường nhập khẩu và giải pháp để khai thác và phát triển thị trường xuất khẩu nông lâm thủy sản của tỉnh Đồng Tháp và Xúc tiến xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Trung Quốc, TS TS. Ngô Xuân Nam, Phó Giám đốc Văn phòng SPS Việt Nam, Bộ Nông nghiệp và Môi trường và Bà Nguyễn Thị Cẩm Tú, Đại diện Vụ Thị trường Nước ngoài, Bộ Công Thương Khuyến nghị các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu cần đáp ứng yêu cầu SPS của thị trường nhập khẩu như: Tuân thủ các quy định của Việt Nam và thị trường nhập khẩu về an toàn thực phẩm và an toàn dịch bệnh trong quá trình sản xuất; Nghiên cứu kỹ các quy định của thị trường, Cập nhật biện pháp về an toàn thực phẩm và an toàn dịch bệnh (SPS) của thị trường nhập khẩu, đặc biệt là thị trường Trung Quốc.
Kết luận Hội nghị bà Võ Phương Thuỷ, Giám đốc Sở Công Thương, Phó Trưởng ban Thường trực, Ban Chỉ đạo Hội nhập quốc tế tỉnh Đồng Tháp tin tưởng rằng, với sự hiện diện và chia sẻ sâu sắc từ các chuyên gia uy tín cùng sự quan tâm, chủ động tham gia của các doanh nghiệp, Hội nghị hôm nay sẽ mang lại nhiều giá trị thiết thực, giúp cho cộng đồng doanh nghiệp xuất khẩu Tỉnh nhà kịp thời nắm bắt thông tin, tận dụng cơ hội và vượt qua thách thức một cách hiệu quả.
Nguồn: Văn phòng Ban Chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về kinh tế