Tin tức

Trở lại tháng 7/2009, trước khi các chuyên gia có thể chỉ ra một chính sách đối ngoại dễ nhận biết từ Liên minh châu Âu, Brussels đã dẫn đầu thế giới trong việc ủng hộ thương mại tự do. Tại Hội nghị thượng đỉnh quan hệ đối tác ASEAN-EU được tổ chức ở Phuket, Thái Lan năm đó, hai bên đã khẳng định hợp tác chặt chẽ hơn giữa các quốc gia là con đường tiến tới một thế giới toàn cầu hóa.

EU khi đó là đối tác thương mại lớn nhất của ASEAN và ASEAN là điểm đến đầu tư trực tiếp nước ngoài hàng đầu của EU ở châu Á. Khi EU ký một hiệp định thương mại tự do (FTA) với Singapore vào năm 2018, hiệp định đầu tiên với một quốc gia Đông Nam Á, Singapore khẳng định giữ vững lập trường ủng hộ tự do thương mại và chủ nghĩa đa phương.

Khi EU ký FTA với Việt Nam vào năm 2019, Ủy ban châu Âu đã mô tả đây là “hiệp định thương mại tự do tham vọng nhất từng được ký kết với một nước đang phát triển”. Trong cuộc khảo sát Đông Nam Á năm 2020, do Viện ISEAS-Yusof Ishak ở Singapore thực hiện hàng năm, các ý kiến cho rằng nước đi đầu về thương mại tự do là Nhật Bản còn EU đứng thứ hai với tỷ lệ chọn 25,5%. Vào năm 2021, tỷ lệ bình chọn cho thấy một lần nữa EU đứng thứ hai. Nhưng trong cuộc khảo sát mới nhất, vào năm 2022, EU đã rơi xuống vị trí thứ tư, sau Trung Quốc vài điểm phần trăm.

ASEAN-EU vượt khó vì thương mại tự do với châu Á

Chuyên gia Rahul Mishra, giảng viên cấp cao tại Viện Á-Âu của Đại học Malaya, cho biết: các hàng rào phi thuế quan của Liên minh châu Âu thường bị các nhà phân tích coi là các biện pháp bảo hộ. Ví dụ, vào giữa tháng 3, Brussels đã tăng thuế đối với các sản phẩm thép không gỉ từ Indonesia sau khi cáo buộc rằng họ được hưởng lợi từ các khoản trợ cấp không công bằng, bao gồm một số khoản từ chương trình đầu tư Vành đai và Con đường của Trung Quốc.

Ngoài các mức thuế chống bán phá giá hiện hành, Indonesia hiện sẽ phải đối mặt với mức thuế tổng thể là 30,7%, tăng so với mức 21,4% trước đây. Động thái này được thiết kế để bảo vệ các nhà sản xuất thép châu Âu khỏi những gì mà các nhà điều tra của EU cáo buộc là cạnh tranh không lành mạnh từ Indonesia. Cao ủy Thương mại của EU Valdis Dombrovskis, cho biết trong một tuyên bố vào ngày 16/3 rằng, EU đang hành động để chống lại các khoản trợ cấp không công bằng do nhà nước tài trợ ở Ấn Độ và Indonesia.

Jakarta phủ nhận các công ty của họ nhận được các khoản trợ cấp không cạnh tranh, bao gồm cả từ Trung Quốc, và buộc tội cuộc điều tra của EU là không lắng nghe các lập luận của các nhà ngoại giao Indonesia đưa ra. Những lập luận đó đã chứng minh rõ ràng rằng chính phủ Indonesia không có trợ cấp nào cho ngành thép không gỉ Indonesia.

Vào năm 2019, EU đã áp đặt mức thuế bảo hộ đối với nhập khẩu một số loại gạo từ Campuchia và Myanmar sau các cuộc phản đối của nông dân ở Ý và Tây Ban Nha. Mức thuế này kéo dài từ đầu năm 2019 đến tháng 1/2022. Roberto Magnaghi, giám đốc Ente Nazionale Risi, cơ quan gạo quốc gia của Ý ước tính nhập khẩu tổng thể từ Campuchia và Myanmar đã giảm 41% trong giai đoạn 2020-2021, mức thấp nhất trong 8 năm tiếp thị qua.

Nhưng được cho là sự phá sản lớn nhất đối với thương mại tự do đến từ việc EU có kế hoạch loại bỏ dần việc nhập khẩu dầu cọ, một vấn đề cụ thể đối với Indonesia và Malaysia, hai nhà xuất khẩu lớn nhất thế giới về sản phẩm thường được sử dụng làm nhiên liệu sinh học. EU khẳng định rằng sản xuất dầu cọ là không bền vững và là nguyên nhân chính dẫn đến nạn phá rừng. Jakarta và Kuala Lumpur phản đối rằng họ đang làm cho ngành dầu cọ bền vững hơn, và phản đối cáo buộc có tác động mạnh mẽ đến nạn phá rừng như Brussels tuyên bố.

Cả hai quốc gia Đông Nam Á đã dọa sẽ đưa vụ kiện chống lại EU lên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vì hành động mà họ coi là một động thái bảo hộ nhằm giúp đỡ các nhà sản xuất dầu thực vật của chính châu Âu. EU phủ nhận đây là một biện pháp bảo hộ, nhưng việc EU không ngừng ngay lập tức sản xuất và sử dụng dầu hạt cải dầu và dầu đậu nành trong khi cấm nhập khẩu dầu cọ đã không được nhiều chuyên gia trong khu vực đánh giá cao. Đậu nành và hạt cải dầu, những thứ đã được quảng bá là lựa chọn thay thế dầu cọ như một loại nhiên liệu sinh học, kém hiệu quả hơn nhiều trong việc chống chọi với các mối lo ngại về khí hậu và cần nhiều phân bón và đất canh tác hơn để sản xuất. Trong cuộc khảo sát về Đông Nam Á năm 2021, khoảng 29,5% người Indonesia được hỏi cho biết EU đi đầu trong thương mại tự do toàn cầu, tỷ trọng cao nhất so với bất kỳ quốc gia nào. Nhưng niềm tin này đã giảm xuống chỉ còn 12,2% trong cuộc khảo sát năm 2022.

Người Campuchia đã xếp hạng EU dẫn đầu chính của thương mại tự do vào năm 2021, nhưng vào năm 2022, họ chỉ coi EU xếp hạng thứ ba. Đại sứ EU tại ASEAN Igor Driesmans trả lời rằng trong tất cả các trường hợp này khi đối mặt với các hành vi thương mại không công bằng, EU đã hành động theo các quy tắc của WTO.

Chính sách thương mại của EU nhằm mục đích tăng cường cơ hội thương mại và đầu tư bằng cách loại bỏ các rào cản thương mại, chẳng hạn như thuế quan và hạn ngạch, đồng thời đảm bảo cạnh tranh công bằng. Thực tế, EU đưa ra các chương trình thương mại hạn ngạch và thuế quan thấp ưu đãi cho một số quốc gia Đông Nam Á.

Ngay cả khi vào tháng 8/2020, Brussels trừng phạt chính phủ Campuchia bằng cách cắt giảm các đặc quyền thương mại theo kế hoạch “Tất cả mọi thứ trừ vũ khí” (EBA), chỉ áp dụng lại thuế đối với khoảng một phần tư hàng nhập khẩu chứ không phải hàng xuất khẩu chính của Campuchia.

Tuy nhiên, đã có sự thay đổi hướng đi từ Brussels trong những năm gần đây. Vào tháng 2/2021, Ủy ban châu Âu đã đề ra một chiến lược thương mại mới dựa trên khái niệm “quyền tự chủ chiến lược mở”.

Chính sách này được xây dựng dựa trên “sự cởi mở của EU để đóng góp vào sự phục hồi kinh tế thông qua hỗ trợ chuyển đổi xanh và kỹ thuật số, cũng như tập trung đổi mới vào việc củng cố và cải cách các quy tắc thương mại toàn cầu để đảm bảo rằng chúng công bằng và bền vững”.

Chiến lược mới ưu tiên một cuộc cải cách lớn của WTO, bao gồm các cam kết toàn cầu về thương mại và khí hậu, các quy tắc mới về thương mại kỹ thuật số, các quy tắc tăng cường để giải quyết các biến dạng cạnh tranh và khôi phục hệ thống giải quyết tranh chấp ràng buộc.

Sau làn sóng các thỏa thuận mới trong những năm gần đây, Ủy ban Châu Âu sẽ tập trung nỗ lực vào việc mở ra các lợi ích từ các thỏa thuận thương mại của EU, cùng với việc thực thi quyết đoán cả cam kết tiếp cận thị trường và phát triển bền vững.

Nhưng đằng sau tất cả những điều này là một cuộc chiến ý tưởng cơ bản giữa những người ở EU muốn duy trì cam kết thương mại tự do và những người muốn hướng khối này theo hướng tự cung tự cấp hướng nội hơn.

Vào đầu năm 2021, Bộ trưởng Thương mại Thụy Điển, Anna Hallberg, đã nói về một nhóm tám quốc gia EU, bao gồm cả Đức và Hà Lan, những người đang cố gắng đấu tranh cho "thương mại mở, tự do và công bằng" chống lại cái được gọi là "xu hướng bảo hộ" trong khối.

Các nhà kinh tế cảnh báo rằng dấu ấn cao của thương mại tự do toàn cầu, hay toàn cầu hóa, có thể đã trôi qua và chúng ta hiện đang bước vào một thế giới của chủ nghĩa bảo hộ và tự cung tự cấp lớn hơn. Vivekanand Jayakumar, phó giáo sư kinh tế tại Đại học Tampa, đã lập luận rằng sau đỉnh điểm của làn sóng toàn cầu hóa gần đây, thế giới hiện đang bước vào giai đoạn phi toàn cầu hóa mà một phần là kết quả của đại dịch Covid-19, cùng với xung đột ở Ukraine đã thuyết phục nhiều chính phủ châu Âu về nhu cầu tự cung tự cấp lớn hơn, đặc biệt không chỉ về nguồn cung cấp năng lượng.

Thu Huyền, Bộ Tài chính