Tin tức

Một trong những phương tiện thúc đẩy hội nhập kinh tế của các nhóm khu vực trên toàn thế giới là thông qua các hiệp định thương mại tự do. ASEAN cũng nằm trong xu hướng đó. Để theo đuổi mục tiêu thiết lập một thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất với luồng hàng hóa tự do, các quốc gia thành viên ASEAN (AMS) đã ký Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) vào năm 2009.

ATIGA là kết quả của gần 2 thập kỷ nỗ lực hội nhập thương mại giữa AMS, bắt đầu với việc ký kết Khu vực Thương mại tự do ASEAN (AFTA) vào năm 1993.

ATIGA, tiền thân của các FTA ASEAN +1, bao gồm cả Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) vừa có hiệu lực ngày 1/1, củng cố và hợp lý hóa các điều khoản trong Hiệp định về Biểu thuế ưu đãi có hiệu lực chung (CEPT) và các hiệp định ASEAN có liên quan khác, và mở rộng phạm vi của nó. ATIGA không chỉ cắt giảm thuế quan và có các điều khoản cụ thể về quy tắc xuất xứ (ROO), các biện pháp phi thuế quan (NTM), tạo thuận lợi thương mại và các biện pháp kiểm dịch động thực vật (SPS). Ủy ban Điều phối thực hiện ATIGA (CCA) đã yêu cầu Viện Nghiên cứu kinh tế ASEAN và Đông Á (ERIA) tiến hành đánh giá định lượng về tác động của ATIGA đối với thương mại nội khối ASEAN, như một đóng góp cho đánh giá chung của CCA về ATIGA.

Tác động của hiệp định ATIGA đối với thương mại nội khối ASEAN

Báo cáo này cho thấy, do hậu quả trực tiếp của ATIGA, thuế quan đối với thương mại nội khối ASEAN đã được giảm xuống 0 đối với hầu hết các dòng thuế. Đánh giá cho thấy các cam kết tự do hóa thuế quan theo ATIGA hầu hết đã đạt được. Những nỗ lực tự do hóa này đã đưa ASEAN đến gần hơn với mục tiêu trở thành một “thị trường chung và một cơ sở sản xuất thống nhất”, đây là một trong ba mục tiêu của AFTA được đề ra vào năm 1993. Nhưng ATIGA tồn tại trong bối cảnh AMS đơn phương tự do hóa cũng như tồn tại các ưu đãi thuế quan thay thế như các ưu đãi thuế quan được ghi trong Hiệp định Công nghệ và thông tin của Tổ chức Thương mại thế giới và các FTA ASEAN +1. Do đó, chỉ có một số dòng thuế hạn chế đưa ra biên độ ưu đãi (MOP) đủ cao để khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng ATIGA khi giao dịch trong ASEAN vì nhiều AMS đã đặt mức thuế MFN bằng 0 hoặc ở mức thấp.

Hơn nữa, chi phí tuân thủ các điều khoản ATIGA làm giảm khả năng sử dụng do MOP thấp. Vì những lý do này, tác động của ATIGA chỉ giới hạn ở các ngành và sản phẩm mà MOP vẫn ở mức cao (do thuế MFN cao), chủ yếu là nông nghiệp, thực phẩm chế biến và ô tô. Trong những lĩnh vực này, việc sử dụng ATIGA ngày càng được ưu tiên theo thời gian. Một số ít sản phẩm thể hiện tác động tạo ra thương mại của ATIGA và tác động tạo thương mại có liên quan tích cực đến tỷ lệ sử dụng MOP và FTA. Khi AMS đơn phương tự do hóa hơn nữa nền kinh tế của họ và khi các hiệp định đa phương mới (ví dụ như RCEP) có hiệu lực, ATIGA cần được cập nhật để duy trì tính phù hợp.

Trọng tâm chính của cải cách phải là giảm chi phí tuân thủ, cùng với những thứ khác, tăng cường các quy tắc xuất xứ và thủ tục cấp giấy chứng nhận xuất xứ để giúp giảm chi phí và khuyến khích sử dụng. Điều này sẽ đảm bảo rằng ngay cả những tỷ suất lợi nhuận nhỏ mà ATIGA cung cấp vẫn tiếp tục có giá trị đối với các nhà giao dịch. Hơn nữa, những lĩnh vực mà ATIGA có hiệu quả nhất do MOP cao là những lĩnh vực có sự tham gia của các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME). Vì vậy, ATIGA có thể tiếp tục là động lực quan trọng thúc đẩy sự tham gia của SME trong thương mại nội khối ASEAN. Nhưng để đảm bảo ATIGA thành công trong việc làm như vậy, thông tin cụ thể về các rào cản đối với việc sử dụng ATIGA của các công ty này cần được thu thập và các vấn đề cơ bản cần được giải quyết khi ASEAN tiến bộ trong việc làm sâu sắc và tăng cường hội nhập kinh tế khu vực thông qua ATIGA và các FTA ASEAN +1 và RCEP.

Thu Huyền, Bộ Tài chính