Tin tức

Phần lớn các nghĩa vụ về SHTT mà Việt Nam cam kết trong các FTA đều tương đương với các nghĩa vụ trong Hiệp định TRIPS. Mặc dù trong các FTA này có một số nghĩa vụ không được đặt ra hoặc cao hơn so với Hiệp định TRIPS nhưng các nghĩa vụ có mức độ cao hơn này chủ yếu ở dạng không bắt buộc, chỉ đòi hỏi các bên phải nỗ lực để thực hiện.

1. Vấn đề tuẩn thủ các cam kết SHTT trong các FTA

Phần lớn các nghĩa vụ về SHTT mà Việt Nam cam kết trong các FTA đều tương đương với các nghĩa vụ trong Hiệp định TRIPS. Mặc dù trong các FTA này có một số nghĩa vụ không được đặt ra hoặc cao hơn so với Hiệp định TRIPS nhưng các nghĩa vụ có mức độ cao hơn này chủ yếu ở dạng không bắt buộc, chỉ đòi hỏi các bên phải nỗ lực để thực hiện.

Tuy nhiên, theo quy định của việc áp dụng các điều ước quốc tế tại Việt Nam (Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005 trước đây và Luật Điều ước quốc tế năm 2016 hiện nay), các quy định, nghĩa vụ tại điều ước quốc tế về cơ bản phải được nội luật hoá thông qua việc sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật. Vì thế, có thể nói, nếu doanh nghiệp tuân thủ các quy định về SHTT trong khuôn khổ pháp luật Việt Nam, thì về cơ bản cũng đáp ứng việc tuân thủ các cam kết SHTT trong các FTA mà Việt Nam tham gia.

Tuy nhiên, để đảm bảo không gặp phải những trở ngại trong hoạt động kinh doanh, bên cạnh việc tuân thủ pháp luật SHTT trong nước, các doanh nghiệp cũng cần tìm hiểu một cách cẩn trọng, kĩ lưỡng nội dung của các cam kết về SHTT trong các FTA mà Việt Nam tham gia, nhất là khi hoạt động kinh doanh liên quan đến các thị trường này.

Việc tìm hiểu nội dung của các cam kết về SHTT trong các FTA còn giúp cho doanh nghiệp nắm bắt được xu thế về bảo hộ và thực thi quyền SHTT đang diễn ra trên thế giới, từ đó dự đoán được những thay đổi về chính sách có thể tác động đến lĩnh vực SHTT nói chung và hoạt động kinh doanh của mình nói riêng.

Ngoài ra, khi dự định tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh hoặc dự định xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ vào thị trường nào, doanh nghiệp cũng cần tìm hiểu pháp luật về SHTT của thị trường đó vì ngoài các nghĩa vụ quy định tại các FTA với Việt Nam, mỗi nước sẽ có những cam kết quốc tế về SHTT trong các khuôn khổ khác và triển khai, thi hành các cam kết này theo cách thức khác nhau phù hợp với hệ thống pháp luật nước mình.

2. Vấn đề xác lập quyền SHTT trong hoạt động sản xuất, kinh doanh

 Tra cứu thông tin sở hữu công nghiệp trước khi nộp đơn đăng ký

Trước khi đăng ký xác lập quyền đối với bất kỳ đối tượng SHTT nào, doanh nghiệp cần tiến hành tra cứu thông tin nhằm kiểm tra việc các đối tượng này đã được người khác đăng ký hay chưa, đặc biệt là sáng chế, kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu.

Đối với nhãn hiệu, doanh nghiệp cần kiểm tra cơ sở dữ liệu nhãn hiệu trước khi thương mại hoá sản phẩm và dịch vụ để tránh việc xâm phạm với một nhãn hiệu đã được bảo hộ trước ở thị trường mà doanh nghiệp dự định sử dụng nhãn hiệu hoặc xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu.

Việc tra cứu đối với nhãn hiệu có thể được thực hiện thông qua các cơ sở dữ liệu trực tuyến (có phí hoặc miễn phí), các công ty chuyên cung cấp dịch vụ tra cứu nhãn hiệu, hoặc tại cơ quan đăng ký nhãn hiệu quốc gia.

Một số cơ sở dữ liệu miễn phí về các nhãn hiệu đã đăng ký có thể là khởi đầu rất hữu ích cho các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp khởi nghiệp, bao gồm:

- Cơ sở dữ liệu nhãn hiệu của Cơ quan sáng chế và nhãn hiệu Hoa Kỳ (USPTO): https://tmsearch.uspto.gov/

- Cơ sở dữ liệu nhãn hiệu của Châu Âu (OHIM): https://euipo.europa.eu/ohimportal/en/databases

- Cơ sở dữ liệu nhãn hiệu của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO): http://www.wipo.int/madrid/en/romarin/

- Cơ sở dữ liệu nhãn hiệu của Cơ quan sáng chế Nhật Bản (JPO): https://www3.j-platpat.inpit.go.jp/cgi-in/ET/TM_AREA_E.cgi?1496730898391

Một điều quan trọng cần lưu ý là trong quá trình tra cứu, có thể dễ dàng nhận biết các nhãn hiệu trùng với nhãn hiệu của các doanh nghiệp đăng ký trước, nhưng các nhãn hiệu tương tự và có khả năng gây nhầm lẫn theo pháp luật SHTT sẽ khó xác định hơn. Lúc này các doanh nghiệp cần phải liên hệ với các đại diện sở hữu công nghiệp, một tổ chức chuyên nghiệp trong hoạt động hỗ trợ xác lập quyền SHTT.

Đối với sáng chế, việc tra cứu thông tin kỹ thuật có trong dữ liệu bằng sáng chế có thể cung cấp cho doanh nghiệp các thông tin quan trọng để:

(i) Tránh các chi phí không cần thiết trong việc nghiên cứu lặp lại;

(ii) Cập nhật các công nghệ mới nhất trong lĩnh vực chuyên môn;

(iii) Xác định các công nghệ thay thế;

(iv) Tìm giải pháp có sẵn cho các vấn đề kỹ thuật;

(v) Lấy ý tưởng để tiếp tục đổi mới.

Ngoài ra, việc tiến hành tra cứu thông tin bằng sáng chế sẽ giúp các doanh nghiệp tìm kiếm các đối tác kinh doanh, tìm kiếm các nhà cung cấp và nguyên liệu, theo dõi hoạt động của các đối thủ cạnh tranh và các đối thủ cạnh tranh tiềm năng cũng như xác định các thị trường thích hợp.

Bên cạnh đó, các thông tin có trong các cơ sở dữ liệu sáng chế còn có thể được sử dụng để tránh các hành vi vi phạm có thể xảy ra, phản đối cấp bằng sáng chế nếu xung đột với bằng sáng chế của mình.

Tương tự như nhãn hiệu, việc tra cứu thông tin đối với sáng chế có thể được thực hiện thông qua các tổ chức chuyên nghiệp như đại diện SHCN, các cơ quan đăng ký sáng chế quốc gia, hoặc thông qua các cơ sở dữ liệu trực tuyến (có phí hoặc mất phí).

Các cơ sở dữ liệu có chất lượng nhưng miễn phí bao gồm:

- Cơ sở dữ liệu sáng chế của Cơ quan sáng chế và nhãn hiệu Hoa Kỳ (USPTO):https://www.uspto.gov/patents-application-process/search-patents#heading-- Cơ sở dữ liệu sáng chế của Cơ quan sáng chế Châu Âu (EPO): https://worldwide.espacenet.com/singleLineSearch

- Cơ sở dữ liệu sáng chế của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO): http://patentscope.wipo.int/

- Cơ sở dữ liệu sáng chế của Cơ quan sáng chế Nhật Bản (JPO): https://www4.jplatpat.inpit.go.jp/eng/tokujitsu/tkbs_en/TKBS_EN_GM101_Top.action

- Cơ sở dữ liệu sáng chế của Cơ quan sáng chế Hàn Quốc (KIPRIS):

http://eng.kipris.or.kr/enghome/main.jsp

Nộp đơn đăng ký bảo hộ quyền SHTT

Sau khi đã tiến hành tra cứu và xác định thị trường, để khai thác tốt nhất các quyền SHTT, doanh nghiệp phải đảm bảo các quyền SHTT được bảo hộ ở tất cả các thị trường mà mình dự định hoạt động kinh doanh.

Đối với quyền tác giả, về cơ bản quyền tác giả sẽ tự động được bảo hộ ở tất cả các quốc gia là thành viên Công ước Berne hoặc thành viên của WTO mà không cần phải có thủ tục đăng ký. Tuy nhiên không vì thế mà việc đăng ký quyền tác giả kém phần quan trọng, bởi lẽ nó sẽ giúp ích đáng kể cho chủ sở hữu trong trường hợp xảy ra tranh chấp.

Để tìm hiểu sâu hơn về quyền tác giả và các thủ tục đăng ký, các doanh nghiệp có thể truy cập một số địa chỉ website của các cơ quan quyền tác giả của một số nước như Cơ quan quyền tác giả Hoa Kỳ: https://www.copyright.gov/; Cơ quan quyền tác giả của Liên minh Châu Âu:

https://www.eucopyright.com/en/copyright; Cơ quan quyền tác giả Trung Quốc: http://en.ncac.gov.cn/.

Đối với hầu hết các đối tượng sở hữu công nghiệp, bao gồm sáng chế, nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp… đều phải có thủ tục đăng ký xác lập quyền. Liên quan đến thủ tục xác lập quyền, một điều cần lưu ý là thời hạn ưu tiên theo Công ước Paris, theo đó hầu hết các quốc gia đều cho phép thời hạn ưu tiên, đối với sáng chế là 12 tháng, đối với nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp là 06 tháng, theo đó kể từ ngày nộp đơn đầu tiên tại các nước thuộc Công ước, nếu đơn được nộp trong thời hạn ưu tiên thì ngày ưu tiên vẫn được tính từ ngày nộp đơn đầu tiên thay vì ngày nhận đơn ở các nước khác.

Để nộp đơn đăng ký quyền sở hữu công nghiệp, doanh nghiệp có thể lựa chọn một trong các hình thức: Nộp đơn quốc gia, Nộp đơn khu vực hoặc Nộp đơn quốc tế.

Nộp đơn quốc gia

Để được bảo hộ quyền SHTT tại mỗi quốc gia, doanh nghiệp có thể nộp đơn trực tiếp tới các cơ quan sở hữu công nghiệp hay cơ quan SHTT tại mỗi quốc gia đó. Tùy theo quy định của từng quốc gia mà doanh nghiệp có thể nộp đơn trực tiếp hay phải thông qua các văn phòng luật sư hoặc các tổ chức đại diện sở hữu công nghiệp. Thông thường đơn quốc gia phải được nộp bằng ngôn ngữ quốc gia đó chấp nhận và lệ phí cũng theo quy định quốc gia.

Nộp đơn khu vực

Một số quốc gia đã kí kết các thỏa thuận khu vực để có được bảo hộ quyền SHTT trên toàn khu vực chỉ với một đơn đăng ký. Các cơ quan SHTT áp dụng khu vực quy định này bao gồm:

- Cơ quan Sáng chế Châu Âu (để bảo hộ sáng chế tại các nước Châu Âu): http://www.european-patent-office.org

- Cơ quan Hài hoà hóa Thị trường nội khối (để bảo hộ nhãn hiệu, và trong tương lai bảo hộ kiểu dáng công nghiệp tại  các nước Châu Âu): http://oami.eu.int/

- Cơ quan sở hữu công nghiệp Châu Phi (ARIPO, Cơ quan SHTT khu vực châu Phi cho các quốc gia sử dụng tiếng Anh, để bảo hộ sáng chế, nhãn hiệu và kiểu dáng công nghiệp): http://aripo.wipo.net/

- Cơ quan SHTT Châu Phi (OAPI, Cơ quan SHTT khu vực châu Phi cho các quốc gia sử dụng tiếng Pháp để bảo hộ sáng chế, nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp và trong tương lai, chỉ dẫn địa lý và thiết kế bố trí mạch tích hợp): http://oapi.wipo.net/ 

- Cơ quan Sáng chế Á-Âu (để bảo hộ sáng chế ở các nước Cộng đồng các Quốc gia Độc lập): http://www.eapo.org/

- Cơ quan nhãn hiệu Benelux và Cơ quan kiểu dáng công nghiệp Benelux (để bảo hộ nhãn hiệu và kiểu dáng công nghiệp ở các nước Bỉ, Hà Lan và Luxembourg): http://www.bmb-bbm.org/ và http://www.bbtm-bbdm.org/

- Cơ quan Sáng chế của Hội đồng hợp tác các quốc gia Ả Rập của vùng Vịnh (bảo hộ sáng chế): http://www.gulf-patent-office.org.sa/

Nộp đơn quốc tế

Nhằm mục đích đơn giản hóa quá trình nộp đơn đăng ký để cùng lúc được hưởng sự bảo hộ quyền SHTT tại nhiều nước, thay vì nộp đơn quốc gia bằng nhiều ngôn ngữ, các hệ thống nộp đơn đăng ký quốc tế cho phép doanh nghiệp nộp một đơn duy nhất, bằng một ngôn ngữ duy nhất và chỉ phải trả một khoản lệ phí nộp đơn.

Các hệ thống nộp đơn quốc tế này không chỉ tạo thuận lợi cho quá trình nộp đơn đăng ký quyền SHTT mà còn giảm đáng kể chi phí để có được sự bảo vệ quốc tế, nhất là đối với nhãn hiệu và kiểu dáng công nghiệp. Đối với sáng chế, hệ thống nộp đơn đăng ký quốc tế sáng chế giúp doanh nghiệp có thời gian để đánh giá tiềm năng thương mại hóa sáng chế trước khi nộp phí quốc gia trong giai đoạn quốc gia.

Các hệ thống nộp đơn đăng ký quốc tế do WIPO quản lý bao gồm ba cơ chế khác nhau để bảo hộ các đối tượng cụ thể của quyền sở hữu công nghiệp:

(i) Nộp đơn quốc tế đăng ký sáng chế theo Hệ thống PCT;

(ii) Nộp đơn quốc tế đăng ký nhãn hiệu theo Hệ thống Madrid;

(iii) Nộp đơn quốc tế đăng ký kiểu dáng công nghiệp theo Hiệp định La Hay.

 Hiện nay, Việt Nam đã gia nhập hệ thống PCT và hệ thống Madrid, do đó việc nộp đơn đăng ký quốc tế đối với hai đối tượng là sáng chế và nhãn hiệu đã được quy định cụ thể trong Luật SHTT và sẽ được trình bày chi tiết hơn tại phần sau. Đối với đối tượng kiểu dáng công nghiệp, do Việt Nam chưa gia nhập hệ thống La Hay nên hiện nay tổ chức, cá nhân tại Việt Nam muốn đăng ký kiểu dáng ở nước ngoài chưa thể sử dụng hệ thống này để nộp đơn mà phải nộp đơn đăng ký kiểu dáng công nghiệp vào từng nước.

Khi doanh nghiệp phát hiện quyền SHTT của mình đang bị xâm phạm, một trong các thủ tục nên làm trước tiên là gửi văn bản cảnh báo cho bên xâm phạm,  trong đó thông báo cho bên xâm phạm về hành vi của bên đó đang xâm phạm các quyền SHTT đã được bảo hộ của mình (có thể đưa ra các chứng cứ về phạm vi, địa điểm, thời gian, người thực hiện hành vi…), yêu cầu chấm dứt các hành vi xâm phạm và nếu có thể, đề xuất phương án giải quyết phù hợp.

Đây là một trong những biện pháp tự bảo vệ của chủ sở hữu quyền SHTT. Với tính chất nhanh gọn, không phụ thuộc thủ tục, trong nhiều trường hợp, biện pháp này lại trở thành biện pháp mang lại hiệu quả cao, nhất là trong các trường hợp hành vi xâm phạm quyền SHTT do vô ý.

Bên cạnh biện pháp tự bảo vệ, doanh nghiệp cũng có thể tìm kiếm sự hỗ trợ từ các cơ quan thực thi pháp luật trong các trường hợp cố ý xâm phạm để ngăn chặn hành vi này. Tuy nhiên, trước khi áp dụng bất kỳ biện pháp nào, doanh nghiệp cũng nên tham vấn ý kiến từ các luật sư hoặc chuyên gia về thực thi quyền SHTT để đánh giá chính xác các biện pháp xử lý có thể, thuận lợi cũng như khó khăn của từng biện pháp xử lý, cơ hội thắng, số tiền bồi thường thiệt hại cũng như các chi phí phát sinh khi áp dụng các biện pháp khác nhau.

Dưới đây là một số biện pháp doanh nghiệp có thể áp dụng trong việc xử lý các hành vi xâm phạm quyền SHTT:

Biện pháp tự bảo vệ quyền SHTT

Biện pháp tự bảo vệ xuất phát từ nguyên tắc tôn trọng, bảo vệ quyền dân sự của pháp luật nhiều nước cũng như các điều ước quốc tế.

Biện pháp tự bảo vệ cho phép doanh nghiệp, với tư cách chủ thể bị xâm phạm quyền SHTT, được áp dụng những biện pháp nhất định để bảo vệ quyền của mình. Tùy theo quy định trong pháp luật của mỗi nước, các biện pháp mà chủ thể bị xâm phạm quyền SHTT có thể lựa chọn để áp dụng là: yêu cầu bên xâm phạm phải chấm dứt hành vi xâm phạm; yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình...

Trong lĩnh vực quyền tác giả và quyền liên quan, với sự tiến bộ của khoa học và công nghệ, một số loại hình tác phẩm như bản ghi âm, sản phẩm phần mềm và các tác phẩm nghe nhìn có thể được chủ thể quyền áp dụng các biện pháp tự bảo vệ bằng công nghệ (ví dụ: mã hoá, hệ thống truy cập có điều kiện…) và theo pháp luật của nhiều nước, nhất là các nước phát triển như Hoa Kỳ, EU, việc dỡ bỏ các biện pháp bảo vệ quyền cũng bị coi là hành vi xâm phạm quyền, dù bản thân các tác phẩm mà các biện pháp này bảo vệ còn chưa bị xâm phạm.

Biện pháp tự bảo vệ quyền SHTT, mặc dù không có sự can thiệp của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng trong chừng mực nhất định cũng giúp nhanh chóng ngăn chặn, chấm dứt hành vi xâm phạm.

Biện pháp trọng tài và/hoặc hòa giải

Trong nhiều trường hợp, theo đuổi các biện phạm xử lý hành vi xâm phạm quyền SHTT thông qua các thủ tục tố tụng tại tòa án có thẩm quyền trở nên vô cùng tốn kém, đặc biệt là khi các quyền SHTT của doanh nghiệp bị xâm phạm bởi các đối thủ cạnh tranh tại các quốc gia khác nhau, doanh nghiệp sẽ phải thực hiện các thủ tục tố tụng trước các tòa án khác nhau. Vì thế, cơ chế giải quyết tranh chấp thông qua trọng tài hoặc hòa giải lại trở thành cơ chế ít tốn kém về tiền bạc và thời gian hơn cho doanh nghiệp.

Thủ tục giải quyết tranh chấp theo cơ chế trọng tài có lợi thế là thủ tục đơn giản và nhanh gọn hơn, các bên vẫn giữ được quyền kiểm soát quá trình giải quyết tranh chấp, do đó, thủ tục này có thể giúp bảo vệ các mối quan hệ kinh doanh giữa các doanh nghiệp với nhau khi các doanh nghiệp này có thể lại là đối tác trong tương lai.

Các thủ tục này thông thường được áp dụng đối với tranh chấp về quyền SHTT giữa các bên tham gia hợp đồng, nhất là các hợp đồng chuyển giao công nghệ, ví dụ như giữa bên chuyển giao quyền sử dụng và bên được chuyển giao quyền sử dụng, hoặc giữa các bên đối tác trong liên doanh với điều kiện các bên đều đồng ý sử dụng cơ chế hòa giải và/hoặc trọng tài để giải quyết các tranh chấp phát sinh mà không lựa chọn tòa án.

Do đó, tại thời điểm soạn thảo các hợp đồng chuyển giao công nghệ, nhượng quyền thương mại hoặc hợp đồng liên doanh, liên kết, doanh nghiệp cần cân nhắc khả năng tranh chấp, từ đó lựa chọn cơ chế và cách thức giải quyết tranh chấp. Là thủ tục thay thế rất tốt để giải quyết tranh chấp, hoặc ít nhất là trong trường hợp hòa giải, ít tốn kém hơn so với một vụ kiện chính thức tại Tòa án, doanh nghiệp có thể cân nhắc các điều khoản phù hợp trong hợp đồng để có thể đưa ra quyết định về việc chỉ sử dụng hòa giải hoặc trọng tài.

Bên cạnh các trung tâm trọng tài tại mỗi nước, ở cấp độ quốc tế, Trung tâm trọng tài của WIPO là một trong các tổ chức cung cấp nhiều dịch vụ để giải quyết tranh chấp thương mại giữa các doanh nghiệp. Trung tâm cung cấp các dịch vụ liên quan đến trọng tài, hoà giải, các tranh chấp liên quan đến tên miền và các dịch vụ chuyên nghiệp khác để giải quyết tranh chấp liên quan đến SHTT.

Biện pháp hành chính bảo vệ SHTT

Về cơ bản, có thể hiểu xử lí vi phạm hành chính đối với quyền SHTT là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng các biện pháp nhất định xử lí các hành vi xâm phạm quyền SHTT của cá nhân, tổ chức mà hành vi này chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.

Một điều cần lưu ý là do quyền SHTT có bản chất là một quyền dân sự, vì thế khi xử lý các hành vi xâm phạm quyền SHTT, phần lớn các nước đều áp dụng các chế tài dân sự. Tuy nhiên, với đặc thù về chính sách, một số nước, trong đó có Việt Nam quy định các chế tài hành chính để xử lý hành vi xâm phạm quyền SHTT, hoặc chỉ giới hạn việc áp dụng chế tài hành chính đối với một số hành vi xâm phạm quyền SHTT.

Một trong những ưu điểm của biện pháp hành chính là nhanh, gọn và ít tốn kém nếu so sánh với việc khởi kiện tại tòa án. Tuy nhiên, biện pháp hành chính không giải quyết được vấn đề bồi thường thiệt hại và trong thực tiễn, cũng bộc lộ nhiều hạn chế về tính hiệu quả khi giải quyết các vụ việc xâm phạm quyền SHTT phức tạp, đặc biệt là các vụ tranh chấp liên quan đến sáng chế.

Tại Việt Nam, biện pháp hành chính vẫn là biện pháp được áp dụng nhiều nhất cho đến nay bởi tính chất nhanh gọn và ít tốn kém của nó.

Biện pháp dân sự bảo vệ quyền SHTT

Khi sử dụng biện pháp dân sự để bảo vệ quyền SHTT, một trong những ưu điểm lớn nhất của biện pháp này đó là khả năng được bồi thường thiệt hại cả về vật chất và về tinh thần cho các chủ thể quyền SHTT. Tuy nhiên, cần lưu ý là khoản bù đắp tổn thất tinh thần chỉ dành cho tác giả các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, người biểu diễn; tác giả của sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, giống cây trồng mà không dành cho chủ sở hữu các đối tượng này.

Đối với khoản bồi thường vật chất, việc xác định mức bồi thường thiệt hại sẽ được dựa trên nhiều căn cứ, trên cơ sở phải thỏa đáng cho những mất mát mà chủ thể quyền phải gánh chịu. Nếu việc xác định mức độ thiệt hại trở nên quá phức tạp và khó khăn, doanh nghiệp có thể lựa chọn phương án yêu cầu tòa án buộc bên xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo mức ấn định trước. Quy định này nhằm giảm bớt cho gánh nặng chứng minh về mức độ thiệt hại cho doanh nghiệp và cũng được quy định trong pháp luật của nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam.

Trong biện pháp dân sự, một biện pháp khác có thể được doanh nghiệp áp dụng, đó là yêu cầu toà án áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời. Tuy nhiên để áp dụng, chủ thể quyền SHTT phải chứng minh rằng việc áp dụng biện pháp này là cần thiết và nếu không áp dụng biện pháp đó thì sẽ gây ra thiệt hại không thể khắc phục được hoặc có nguy cơ chứng cứ về việc xâm phạm sẽ bị tiêu huỷ.

Để tránh lạm dụng, người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải cung cấp các thông tin cần thiết để toà nhận biết về hành vi xâm phạm quyền SHTT và phải nộp một khoản bảo chứng hoặc bảo đảm để bồi thường thiệt hại có thể gây ra cho người bị áp dụng nếu việc áp dụng biện pháp đó là không đúng hoặc không cần thiết.

Tại hầu hết các nước, các biện pháp khẩn cấp tạm thời được áp dụng chủ yếu đối với các vụ xâm phạm nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp và quyền tác giả mà ít khi được áp dụng đối với các vụ xâm phạm sáng chế vì việc xác định xâm phạm quyền đối với sáng chế thường phức tạp, đòi hỏi nhiều thời gian và cả trình độ về kiến thức, kĩ thuật.

Cần lưu ý rằng, quyền sở hữu công nghiệp đối với các đối tượng sở hữu công nghiệp (sáng chế, nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp, chỉ dẫn địa lý) phần lớn phát sinh trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký (trừ nhãn hiệu nổi tiếng), do đó quyền sở hữu này mang tính lãnh thổ, nghĩa là hành vi xâm phạm quyền chỉ phát sinh tại các quốc gia hoặc vùng lãnh thổ mà các đối tượng này được bảo hộ.

Trong khi đó, quyền tác giả quyền liên quan tự động được xác lập mà không phải đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Chính về thế, hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan có thể xảy ra tại bất kỳ quốc gia nào.

Biện pháp hình sự bảo vệ quyền SHTT

Biện pháp hình sự nói chung sẽ được áp dụng khi các hành vi xâm phạm quyền SHTT có tính chất gây nguy hiểm cho xã hội hoặc gây hậu quả nghiêm trọng cho xã hội.

Hiện nay, các cam kết quốc tế trong các FTA mà Việt Nam tham gia chỉ yêu cầu xử lý hình sự đối với các hành vi cố ý xâm phạm quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, với điều kiện các hành vi này phải ở mức "quy mô thương mại”, nghĩa là vừa có tính "thương mại" (theo nghĩa liên quan đến thương mại), vừa có tính "quy mô" (theo nghĩa phải ở một mức độ, phạm vi nhất định).

Tuy nhiên, doanh nghiệp cần lưu ý là hiện nay, các nước phát triển, mà dẫn đầu là Hoa Kỳ thường diễn giải khái niệm "quy mô thương mại" ở mức độ khá thấp, ví dụ: chỉ cần hành vi xâm phạm nhằm đạt được lợi thế thương mại, hoặc nhằm thu lợi tài chính là đã đủ đáp ứng điều kiện này. Bên cạnh đó, các nước này cũng đang theo đuổi chính sách mở rộng các hành vi xâm phạm bị xử lý hình sự, bao gồm cả việc xử lý đối với hành vi xâm phạm quyền đối với sáng chế, hành vi xuất khẩu, hay thậm chí quay phim trong rạp.

Biện pháp kiểm soát biên giới liên quan đến SHTT

Trong Hiệp định TRIPS và các FTA mà Việt Nam tham gia, các biện pháp kiểm soát biên giới về SHTT chủ yếu được giới hạn ở việc kiểm soát hoạt động nhập khẩu đối với hàng hóa giả mạo nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý và hàng sao chép lậu quyền tác giả, chứ không phải hàng hóa xâm phạm quyền SHTT nói chung. Mặc dù vậy, doanh nghiệp cần lưu ý đây chỉ là các cam kết ở mức tối thiểu. Pháp luật của hầu hết các nước phát triển đều quy định áp dụng các biện pháp biện pháp kiểm soát biên giới về SHTT cho cả hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu, thậm chí là quá cảnh. Bên cạnh đó, đối tượng bị kiểm soát được mở rộng ra mọi hàng hoá xâm phạm quyền SHTT nói chung.

Để sử dụng biện pháp này, doanh nghiệp có thể yêu cầu cơ quan hải quan kiểm soát biên giới đối với một loại hàng hoá xác định, hoặc hàng nhập từ một thị trường nhất định, hoặc chuyến hàng cụ thể, từ đó có thể áp dụng việc tạm dừng thông quan. Tương tự như đối với biện pháp khẩn cấp tạm thời, để tránh việc làm dụng quyền hạn yêu cầu tạm dừng thông quan, chủ thể yêu cầu phải nộp cho cơ quan hải quan một khoản bảo chứng hoặc bảo đảm với mức tương đương với mức thiệt hại có thể gây ra cho người bị áp dụng.

Trần Thu Huyền, Bộ Tài chính