Tin tức

Tiêu chuẩn kỹ thuật là quy định về đặc tính kỹ thuật và yêu cầu quản lý dùng làm chuẩn để phân loại, đánh giá sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ, quá trình, môi trường và các đối tượng khác trong hoạt động kinh tế-xã hội nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của các đối tượng này hàng hóa trong xuất khẩu, để doanh nghiệp xuất khẩu được trong các FTA thì cần lưu ý một số nội dung sau:

1. Đánh giá mức độ cam kết về TBT trong các FTA

Cam kết về TBT trong các FTA mà Việt Nam tham gia nhìn chung được soạn thảo và tuân thủ nguyên tắc của Hiệp định TBT của WTO. Trong đó một số điều khoản có các nội dung được quy định cụ thể hơn so với các cam kết liên quan trong Hiệp định TBT của WTO, chủ yếu tập trung ở điều khoản về tiêu chuẩn quốc tế, quy chuẩn kỹ thuật, quy trình đánh giá sự phù hợp và minh bạch hoá. Ví dụ đối với hoạt động đánh giá sự phù hợp, đặt ra các nguyên tắc nhằm thúc đẩy và thuận lợi hoá thương mại, bảo đảm lợi ích của doanh nghiệp trong nước và nước ngoài theo hướng công bằng và bình đẳng. Các tổ chức đánh giá sự phù hợp tại nước ngoài cũng được xem xét tham gia vào hoạt động đánh giá sự phù hợp trong nước nhiều hơn nữa. Việc này đem lại nhiều thuận lợi cho doanh nghiệp như đã được phân tích và chỉ ra trong một số Chương TBT của các FTA mà Việt Nam tham gia như FTA Việt Nam - Chi Lê,  FTA Việt Nam - Hàn Quốc…

Mặc dù cấu trúc của các Chương TBT trong các FTA khác nhau nhưng đều đảm bảo nguyên tắc cân bằng quyền lợi và nghĩa vụ của các bên. Nghĩa vụ đó là không được tạo ra rào cản không cần thiết cho thương mại quốc tế nhưng vẫn được phép xây dựng hàng rào kỹ thuật để thực hiện các mục tiêu hợp pháp mà Hiệp định TBT của WTO cho phép như bảo vệ sức khoẻ, an toàn của con người, bảo vệ sức khoẻ và an toàn của động, thực vật, bảo vệ môi trường, ngăn ngừa hành vi gian lận thương mại…

Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về TBT của Việt Nam về cơ bản đã đáp ứng các cam kết TBT của WTO và các các FTA mà Việt Nam tham gia, cụ thể đảm bảo các nguyên tắc quan trọng về TBT trong các hiệp định này bao gồm không phân biệt đối xử, không cản trở thương mại, hài hoà với tiêu chuẩn quốc tế, thừa nhận lẫn nhau kết quả đánh giá sự phù hợp… Ngoài ra nguyên tắc minh bạch hoá, một nguyên tắc quan trọng trong cam kết TBT liên quan tới việc xây dựng, ban hành tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá sự phù hợp đã được thể hiện rất rõ và cụ thể trong các điều khoản của Luật tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật. Hoạt động lập quy kỹ thuật được đánh giá là chịu tác động nhiều nhất bởi các điều khoản về minh bạch hoá trong các cam kết TBT của các  FTA. Các điều khoản này yêu cầu phải công khai minh bạch quá trình xây dựng, ban hành và áp dụng quy chuẩn kỹ thuật và cho phép ít nhất 60 ngày để đóng góp ý kiến. Trong 10 năm gia nhập WTO, Việt Nam đã thông báo hơn 100 dự thảo văn bản quy phạm pháp luật liên quan tới TBT cho các nước thành viên WTO, trong đó bao gồm cả các nước đối tác của Việt Nam trong các FTA, đóng góp ý kiến.

Hệ thống pháp luật của Việt Nam liên quan đến TBT (các văn bản luật và dưới luật) bao gồm 3 cấp dưới đây:

-  Cấp cao nhất, bao gồm các văn bản luật cơ bản do Quốc hội thông qua;

- Cấp Chính phủ, bao gồm các nghị định của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ, quyết định, thông tư của Bộ trưởng hoặc Thủ trưởng cơ quan ngang bộ;

- Cấp địa phương, bao gồm quyết định do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ban hành.

Hệ thống này được rà soát, xây dựng và hoàn thiện khi Việt Nam gia nhập WTO và gần đây để đáp ứng các cam kết về TBT trong các Hiệp định Thương mại tư do song phương và đa phương mà Việt Nam tham gia. 

Sau khi trở thành thành viên chính thức của WTO, Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực TBT để thực hiện cam kết của mình phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của Hiệp định TBT, bao gồm Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007, Nghị định số 127/2007/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật, Nghị định số 132/2008/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá, Nghị định số 67/2009/NĐ-CP sửa đổi một số điều của Nghị định số 127/2007/NĐ-CP và Nghị định số 132/2008/NĐ-CP, Luật về An toàn thực phẩm 2010, Luật Bảo vệ Quyền lợi người tiêu dùng 2010. Đồng thời, nhiều văn bản pháp lý liên quan nhằm hướng dẫn thực hiện các luật và nghị định nêu trên đã được Chính phủ và các Bộ, ngành ban hành từ năm 2007.

Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật của Việt Nam được Quốc hội thông qua ngay trước khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO. Luật này trở thành văn bản pháp luật cơ bản nhằm diễn giải các nguyên tắc cơ bản của Hiệp định TBT ở Việt Nam. Luật này nêu rõ hoạt động trong lĩnh vực tiêu chuẩn hoá phải đảm bảo công khai, minh bạch, không phân biệt đối xử và không gây trở ngại không cần thiết đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh, thương mại. Luật cùng với Nghị định số 127/2007/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật là những văn bản pháp lý quan trọng quy định cụ thể về việc xây dựng, công bố tiêu chuẩn; xây dựng, ban hành quy chuẩn kỹ thuật; đánh giá sự phù hợp với tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật.

Đối tượng của hoạt động trong lĩnh vực tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật bao gồm sản phẩm, hàng hoá được sản xuất để sử dụng trong nước và sản phẩm, hàng hoá xuất nhập khẩu; dịch vụ liên quan đến các hoạt động thương mại, bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin, xây dựng, giáo dục, đào tạo, lao động, dạy nghề, tài chính, ngân hàng, y tế, du lịch, văn hoá, giải trí, thể dục, thể thao, giao thông, vận tải, khoa học, công nghệ, tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng, an ninh, an toàn, nông nghiệp và phát triển nông thôn, thuỷ sản, tài nguyên và môi trường; quá trình sản xuất, khai thác, chế biến, bảo quản, vận chuyển, sử dụng, vận hành, bảo hành, bảo trì, tái chế, tiêu huỷ, quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hoá; môi trường đất, nước, không khí, tiếng ồn, độ rung, bức xạ, phóng xạ, chất thải rắn, nước thải, khí thải; phương tiện, công cụ và hoạt động quản lý, bảo vệ và gìn giữ môi trường; các đối tượng khác trong hoạt động kinh tế - xã hội cần được xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật. Riêng đối với đối tượng hàng hóa, Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa chia hàng hóa thành hai nhóm: nhóm 1 (không có khả năng gây mất an toàn) và Nhóm 2 (có khả năng gây mất an toàn).

Các nguyên tắc cơ bản của hoạt động trong lĩnh vực này là tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật phải bảo đảm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động kinh tế - xã hội, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ trên thị trường trong nước và quốc tế; đáp ứng yêu cầu về an toàn, an ninh quốc gia, vệ sinh, sức khoẻ con người, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên có liên quan, bảo vệ động vật, thực vật, môi trường và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên.

Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật quy định các tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn khu vực, tiêu chuẩn nước ngoài được sử dụng làm cơ sở để xây dựng tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật, trừ trường hợp các tiêu chuẩn đó không phù hợp với đặc điểm riêng biệt của Việt Nam hoặc ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia. Quy chuẩn kỹ thuật được xây dựng dựa vào các căn cứ như tiêu chuẩn quốc gia, tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn khu vực, tiêu chuẩn nước ngoài, kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ...

2. Một số vấn đề doanh nghiệp cần lưu ý khi thực thi cam kết

Tiêu chuẩn

Tiêu chuẩn là quy định về đặc tính kỹ thuật và yêu cầu quản lý dùng làm chuẩn để phân loại, đánh giá sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ, quá trình, môi trường và các đối tượng khác trong hoạt động kinh tế-xã hội nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của các đối tượng này. Tiêu chuẩn do một tổ chức công bố dưới dạng văn bản để tự nguyện áp dụng. Hệ thống tiêu chuẩn của Việt Nam bao gồm tiêu chuẩn quốc gia (ký hiệu là TCVN) và tiêu chuẩn cơ sở (ký hiệu là TCCS). Tiêu chuẩn kỹ thuật được chia thành 5 loại gồm tiêu chuẩn cơ bản, tiêu chuẩn thuật ngữ, tiêu chuẩn yêu cầu kỹ thuật, tiêu chuẩn phương pháp thử và tiêu chuẩn ghi nhãn, bao gói, vận chuyển, bảo quản.

Pháp luật điều chỉnh lĩnh vực tiêu chuẩn chủ yếu quy định việc xây dựng và công bố các tiêu chuẩn. Trong đó quy định trình tự, thủ tục xây dựng, thẩm định, công bố và áp dụng tiêu chuẩn quốc gia/tiêu chuẩn cơ sở; rà soát và chuyển đổi tiêu chuẩn.

Tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh có trách nhiệm công bố tiêu chuẩn áp dụng hoặc các đặc tính cơ bản của sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ, quá trình, môi trường của mình. Tiêu chuẩn này không được trái với yêu cầu quy chuẩn kỹ thuật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Việc công bố tiêu chuẩn áp dụng được thực hiện thông qua hình thức ghi số hiệu tiêu chuẩn được áp dụng hoặc các đặc tính cơ bản trên nhãn hoặc bao gói sản phẩm, hàng hoá, hoặc trong các tài liệu giao dịch, giới thiệu sản phẩm, dịch vụ, quá trình, môi trường...

Quy chuẩn kỹ thuật

Quy chuẩn kỹ thuật là quy định về mức giới hạn của đặc tính kỹ thuật và yêu cầu quản lý mà sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ, quá trình, môi trường và các đối tượng khác trong hoạt động kinh tế-xã hội phải tuân thủ để bảo đảm an toàn, vệ sinh, sức khỏe con người, động thực vật và môi trường; bảo vệ lợi ích và an ninh quốc gia, quyền lợi của người yêu dùng… Quy chuẩn kỹ thuật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành dưới dạng văn bản để bắt buộc áp dụng. Hệ thống quy chuẩn kỹ thuật của Việt Nam bao gồm quy chuẩn kỹ thuật quốc gia (ký hiệu là QCVN) và quy chuẩn kỹ thuật địa phương (ký hiệu là QCĐP). Quy chuẩn kỹ thuật được chia thành 5 loại là quy chuẩn kỹ thuật chung, quy chuẩn kỹ thuật an toàn, quy chuẩn kỹ thuật môi trường, quy chuẩn kỹ thuật quá trình và quy chuẩn kỹ thuật dịch vụ.

Các văn bản pháp luật điều chỉnh lĩnh vực quy chuẩn kỹ thuật đã xây dựng các yêu cầu cụ thể đối với việc xây dựng, thẩm định, ban hành và áp dụng quy chuẩn kỹ thuật.

Về yêu cầu minh bạch hóa, Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật quy định về việc thông báo công khai việc ban hành quy chuẩn kỹ thuật và việc sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ quy chuẩn kỹ thuật; tổ chức phổ biến, hướng dẫn và triển khai áp dụng quy chuẩn kỹ thuật. Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa quy định tuyên truyền, phổ biến chủ trương, chính sách về chất lượng sản phẩm, hàng hoá; xây dựng ý thức sản xuất, kinh doanh sản phẩm, hàng hoá có chất lượng, vì quyền lợi người tiêu dùng, tiết kiệm năng lượng, thân thiện môi trường; nâng cao nhận thức xã hội về tiêu dùng, xây dựng tập quán tiêu dùng văn minh.

Đánh giá sự phù hợp

Đánh giá sự phù hợp là việc xác định đối tượng của hoạt động trong lĩnh vực tiêu chuẩn và lĩnh vực quy chuẩn kỹ thuật phù hợp với đặc tính kỹ thuật và yêu cầu quản lý quy định trong tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật tương ứng. Yêu cầu cơ bản đối với đánh giá sự phù hợp là: bảo đảm công khai, minh bạch về trình tự, thủ tục; bảo mật thông tin; không phân biệt đối xử và hài hòa hóa với quy định của tổ chức quốc tế có liên quan. Có ba hình thức đánh giá sự phù hợp bao gồm: đánh giá sự phù hợp với tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật do tổ chức, cá nhân tự thực hiện; đánh giá sự phù hợp với tiêu chuẩn được thực hiện tự nguyện theo yêu cầu của tổ chức, cá nhân dưới hình thức thử nghiệm, giám định, chứng nhận hợp chuẩn và công bố hợp chuẩn; đánh giá sự phù hợp với quy chuẩn kỹ thuật bắt buộc theo yêu cầu quản lý nhà nước dưới hình thức thử nghiệm, giám định, chứng nhận hợp quy và công bố hợp quy. Theo Nghị định số 127/2007/NĐ-CP, công bố hợp chuẩn là hoạt động tự nguyện của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh trong khi công bố hợp quy là hoạt động bắt buộc. Trong khi đó, Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa quy định việc kiểm tra chất lượng hàng hoá trong nhập khẩu, lưu thông trên thị trường bao gồm kiểm tra kết quả đánh giá sự phù hợp, nhãn hàng hoá, dấu hợp chuẩn, dấu hợp quy và các tài liệu đi kèm sản phẩm, hàng hoá cần kiểm tra; thử nghiệm mẫu theo tiêu chuẩn đã công bố áp dụng, quy chuẩn kỹ thuật tương ứng khi cần thiết...

Các tổ chức chứng nhận sự phù hợp thực hiện việc chứng nhận hợp chuẩn hoặc chứng nhận hợp quy hoặc cả chứng nhận hợp chuẩn và chứng nhận hợp quy khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện luật định. Bên cạnh đó, tổ chức công nhận thực hiện việc đánh giá, công nhận năng lực của phòng thử nghiệm, phòng hiệu chuẩn, tổ chức chứng nhận sự phù hợp, tổ chức giám định. Tổ chức công nhận phải hoạt động phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế và khu vực trong lĩnh vực đánh giá sự phù hợp, tạo điều kiện cho Việt Nam tham gia các hiệp định hoặc các MRA về kết quả đánh giá sự phù hợp, phục vụ nhu cầu quản lý nhà nước trong các lĩnh vực chuyên ngành.

Các hiệp định và các MRA là khuôn khổ để các nước và vùng lãnh thổ thừa nhận lẫn nhau các kết quả chứng nhận sự phù hợp, kết quả hiệu chuẩn, kết quả thử nghiệm, kết quả giám định. Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa tại các Điều 6, 26 quy định: khuyến khích các tổ chức đánh giá sự phù hợp của Việt Nam ký kết thỏa thuận thừa nhận kết quả đánh giá sự phù hợp với tổ chức tương ứng của các nước, vùng lãnh thổ nhằm tạo thuận lợi cho phát triển thương mại giữa Việt Nam với các nước, vùng lãnh thổ.

Khai thác quyền lợi của Việt Nam từ các cam kết TBT

Việc thực thi cam kết TBT chủ yếu thuộc trách nhiệm của các cơ quan quản lý. Doanh nghiệp là đối tượng hưởng lợi trực tiếp hoặc gián tiếp từ các chính sách thuận lợi hoá thương mại liên quan tới TBT sau khi các cam kết TBT có hiệu lực.

Đối với Việt Nam, doanh nghiệp có thể khai thác quyền lợi từ Hiệp định TBT của WTO và các cam kết TBT trong các FTA thông qua:

Liên quan tới nghĩa vụ minh bạch hoá quá trình lập quy kỹ thuật, các hoạt động liên quan tới đánh giá sự phù hợp từ các nước đối tác của Việt Nam:  Doanh nghiệp có quyền đóng góp ý kiến cho các dự thảo quy chuẩn kỹ thuật hoặc quy trình đánh giá sự phù hợp của các nước Thành viên WTO bao gồm cả các nước là đối tác của Việt Nam trong các FTA. Trong trường hợp nhận thấy những biện pháp mà các nước này chuẩn bị đưa ra có khả năng gây cản trở thương mại quá mức cần thiết, gây khó khăn hoặc tốn kém cho quá trình sản xuất, xuất khẩu hàng hoá và vi phạm các nguyên tắc của cam kết TBT trong Hiệp định TBT của WTO và trong các FTA mà Việt Nam là thành viên, có thể yêu cầu tạm dừng ban hành và đề nghị tiếp thu các ý kiến góp ý.

Để làm được như vậy, doanh nghiệp cần thường xuyên theo dõi và cập nhật các chính sách và quy định về TBT do các nước thông báo. Các văn bản này của các nước Thành viên WO bao gồm cả các đối tác thương mại tự do của Việt Nam có trong hệ thống cơ sở dữ liệu của Văn phòng TBT Việt Nam (http://tbt.gov.vn/tbtdata/SitePages/dsthongbao.aspx) hoặc của WTO (http://tbtims.wto.org/).

Doanh nghiệp cần theo dõi các cơ sở dữ liệu nêu trên để cập nhật thông tin về quy chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá sự phù hợp mới của nước ngoài và trong trường hợp thấy có khả năng cản trở thương mại có thể gửi ý kiến góp ý cho Văn phòng TBT Việt Nam để gửi các nước đối tác xem xét. Lưu ý khoảng thời gian cho phép đóng góp ý kiến thông thường là 60 ngày và được nêu rõ trong thông báo mà các nước gửi và được cập nhật trên các cơ sở dữ liệu nêu trên.

Ngoài ra, trong quá trình xuất nhập khẩu sản phẩm, nếu có khó khăn và vướng mắc liên quan tới các thủ tục đáng giá sự phù hợp, thực thi theo các quy chuẩn kỹ thuật của nước ngoài bao gồm cả các quy định về ghi nhãn, ghi dấu… doanh nghiệp có thể liên hệ với Văn phòng TBT Việt Nam hoặc đầu mối TBT của các nước đối tác của Việt Nam trong ASEAN và trong các Hiệp định Thương mại tự do mà Việt Nam là thành viên theo thông tin liên lạc trong Phụ lục 1: Bảng tổng hợp đầu mối liên lạc về TBT của các nước đối tác thương mại tự do của Việt Nam.

Liên quan tới các hoạt động đánh giá sự phù hợp: Thông qua các cam kết về thừa nhận lẫn nhau kết quả đánh giá sự phù hợp, tăng cường thoả thuận các MRA, công nhận hoặc chỉ định các tổ chức đánh giá sự phù hợp ở bên ngoài lãnh thổ… doanh nghiệp có thể tiết kiệm chi phí, thủ tục khi thực hiện đánh giá sự phù hợp như thử nghiệm, chứng nhận … đối với sản phẩm xuất khẩu của mình. Ví dụ: thay vì phải gửi mẫu sang các nước nhập khẩu và làm các thủ tục đánh giá sự phù hợp tại các nước này, doanh nghiệp có thể thực hiện tại các phòng thử nghiệm được các nước nhập khẩu chỉ định tại Việt Nam.

TS. Đào Văn Cường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn