Tin tức

Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) đang tạo điều kiện cho gạo Việt Nam gia tăng xuất khẩu sang thị trường EU. Đặc biệt, sự chuẩn bị kỹ lưỡng của các doanh nghiệp xuất khẩu gạo, cùng hỗ trợ của các bộ ngành, địa phương giúp gạo Việt Nam tự tin đáp ứng được các tiêu chuẩn rất khắt khe của thị trường.

Ông Trần Quốc Toản - Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu - Bộ Công Thương đã chia sẻ như vậy trong cuộc trao đổi với các cơ quan báo chí.

Thưa ông, ông đánh giá như thế nào về tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam trong những tháng đầu năm?

Ngay từ đầu năm 2020, dịch Covid-19 và thiên tai dịch bệnh đã tác động đến kinh tế Việt Nam nói chung và ngành gạo nói riêng của Việt Nam. Cụ thể, tâm lý tiêu dùng của người dân bị ảnh hưởng, các quốc gia tăng dự trữ thu mua khiến nhu cầu gạo tăng cao.

5140-ong-tran-quoc-toan
Ông Trần Quốc Toản - Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu - Bộ Công Thương

Trước tình hình đó, Thủ tướng Chính phủ và các Bộ ngành đã điều hành linh hoạt hoạt động xuất nhập gạo, thực hiện đúng theo Nghị định 107 của Chính phủ về kinh doanh xuất khẩu gạo và Luật Quản lý ngoại thương. Nhờ đó, ta đã đảm bảo tiêu thụ hết lúa gạo cho người nông dân, đảm bảo nguồn tiêu dùng trong nước và có lượng xuất khẩu ổn định về giá.

Theo Tổng cục Hải quan, 8 tháng đầu năm, xuất khẩu gạo đã đạt 4,61 triệu tấn, tăng 0,6% về lượng và 13% về giá trị, sang 150 thị trường và khu vực thị trường. Trong đó châu Á vẫn là khu vực thị trường trọng điểm, chiếm trên 60% tổng kim ngạch xuất khẩu gạo; châu Phi 19%; châu Âu 2%...

Cơ cấu chủng loại gạo cũng dần có sự thay đổi, từ sản xuất xuất khẩu các sản phẩm cấp thấp, cấp trung bình sang các sản phẩm cấp cao, đảm bảo đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng thế giới.

Đã có thời điểm trong những tháng đầu năm, xuất khẩu gạo tăng rất cao so với cùng kỳ. Nguyên nhân là do thiếu cung hay chất lượng gạo xuất khẩu đã được cải thiện, thưa ông?

Theo tôi là là do cả 2 yếu tố. Về cung, ngay từ những tháng đầu năm, ảnh hưởng của Covid-19 và thiên tai và tác động dịch bệnh đã ảnh hưởng, làm gia tăng nhu cầu tiêu dùng người dân các nước và nguồn dự trữ các quốc gia nên lượng xuất khẩu gạo tăng cao.

Ngoài ra, về chất lượng, do ta có sự điều chỉnh trong sản xuất lúa gạo, có sự chuyển đổi từ sản phẩm chất lượng thấp, chất lượng trung bình sang chất lượng cao để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng những quốc gia khó tính như EU, Nhật Bản, Hàn Quốc… nên giá trị xuất khẩu cũng tăng cao.

5139-gao

EU sẽ cấp hạn ngạch cho Việt Nam khoảng 80.000 tấn gạo. Con số này chưa phải là lớn, nhưng nhiều ý kiến cho rằng sẽ giúp tiếp tục nâng cao chất lượng gạo Việt Nam. Ông nhận định ra sao về vấn đề này?

Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan thì mỗi năm ta xuất khẩu sang thị trường EU khoảng 100.000 tấn gạo/năm. Hiện nay, theo cam kết EVFTA, phía bạn dành cho ta mức hạn ngạch 80.000 tấn/năm miễn thuế.

Khi Việt Nam tham gia EVFTA, các điều kiện tiêu chuẩn mà EU áp cho hàng hóa Việt Nam, trong đó có gạo là rất cao, kể cả về quy định an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc, dán nhãn sản phẩm… Bên cạnh đó, theo Nghị định 103 quy định về chứng nhận chủng loại gạo thơm xuất khẩu sang EU, doanh nghiệp muốn xuất khẩu gạo thơm vào EU phải đáp ứng các yêu cầu về nguồn giống; phải có diện tích vùng trồng, địa điểm sản xuất đáp ứng yêu cầu; có các biên bản kiểm tra đánh giá chất lượng từng lô hàng ở từng thời điểm kiểm tra để có thể xuất khẩu hàng hóa vào các thị trường này… Thông qua đó, các doanh nghiệp đã có sự thay đổi, cải thiện về quá trình sản xuất để đáp ứng được tiêu chuẩn của EU và chất lượng gạo Việt Nam ngày càng được nâng cao, không chỉ đáp ứng được nhu cầu của thị trường EU mà còn nhiều thị trường khó tính khác.

Việc giảm thuế suất cũng sẽ tạo lợi thế cạnh tranh cho gạo Việt Nam trên thị trường EU so với các sản phẩm của các nước khác, những thương hiệu gạo khác. Chúng tôi hy vọng hạn ngạch này sẽ giúp tăng lượng xuất khẩu gạo Việt Nam vào thị trường EU cũng như thúc đẩy nhiều doanh nghiệp Việt Nam tham gia xuất khẩu gạo vào thị trường này. Đồng thời thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư, nghiên cứu sản xuất nhiều chủng loại gạo khác để được xuất khẩu vào EU, ngoài 9 loại gạo đã được thị trường này cho phép.

Với những đòi hỏi cao của thị trường EU, khả năng đáp ứng của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay ra sao, thưa ông?

Để được xuất khẩu, các thương nhân Việt Nam phải đáp ứng một số tiêu chuẩn được quy định rõ. Đơn cử như Nghị định 107 về kinh doanh xuất khẩu gạo đã quy định chặt chẽ việc thương nhân xuất khẩu gạo phải có được cơ sở sản xuất, chế biến; phải đầu tư vùng trồng, liên kết chặt chẽ với bà con nông dân và đưa ra các quy trình canh tác chặt chẽ để đưa ra các sản phẩm chất lượng cao vào các thị trường khó tính… Do đó, với các điều kiện của thị trường EU thì tôi tin rằng doanh nghiệp của chúng ta có thể đáp ứng được.

Chưa kể, năm 2019, gạo ST25 của Việt Nam đã đạt danh hiệu gạo ngon nhất thế giới, khẳng định chất lượng giống gạo của Việt Nam. Bên cạnh đó, thời gian qua, các bộ ngành và địa phương triển khai nhiều biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp phát triển ngành nghề lúa gạo. Như Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã triển khai đề án phát triển thương hiệu gạo Việt. Các địa phương cũng đã quy hoạch vùng trồng, vùng sản xuất; tạo chuỗi liên kết giữa hợp tác xã, hộ nông dân với các nhà sản xuất, xuất khẩu nên đến nay, các quy trình sản xuất của thương nhân rất chặt chẽ, tạo ra nguồn gạo chất lượng và có thể đáp ứng được các tiêu chuẩn của EU.

Ngô Nam, Văn phòng SPS