Hội nhập trong nước

Đánh giá, so sánh mức độ cam kết trong các FTA: Về cam kết của các FTA ngang mức WTO: Các FTA có cam kết MNP ngang với mức WTO bao gồm 08 FTA đã có hiệu lực: ASEAN - Hàn Quốc (AKFTA);  ASEAN - Nhật Bản (AJCEP); ASEAN - Trung Quốc (ACFTA); ASEAN - Úc/Niu Di lân (AANZFTA); Việt Nam - Hàn Quốc (VKFTA); ASEAN - Hồng Kông (AHKFTA); Việt Nam - Liên minh kinh tế Á - Âu (VN-EAEU FTA); Việt Nam - Nhật Bản (VJEPA). Đối với các Hiệp định trên, Việt Nam chỉ cam kết về biện pháp liên quan đến nhập cảnh và lưu trú tạm thời của các thể nhân thuộc 05 nhóm sau:

Người di chuyển trong nội bộ doanh nghiệp: Các nhà quản lý, giám đốc điều hành và chuyên gia, của một doanh nghiệp nước ngoài đã thành lập hiện diện thương mại trên lãnh thổ Việt Nam, di chuyển tạm thời trong nội bộ doanh nghiệp sang hiện diện thương mại này và đã được doanh nghiệp nước ngoài tuyển dụng trước đó ít nhất 1 năm, được phép nhập cảnh và lưu trú trong thời gian ban đầu là 3 năm và sau đó có thể được gia hạn tuỳ thuộc vào thời hạn hoạt động của các đơn vị này tại Việt Nam. Các định nghĩa cụ thể nhân sự cấp cao (nhà quản lý, giám đốc điều hành, chuyên gia) được quy định cụ thể trong cam kết WTO, nhằm hướng tới đảm bảo các thể nhân có đủ trình độ và kinh nghiệm được phép nhập cảnh và lưu trú tạm thời để cung cấp dịch vụ tại Việt Nam. Yêu cầu này nhằm hạn chế các trường hợp lợi dụng cam kết để di chuyển lao động có tay nghề thấp vào nước ta.

Ít nhất 20% tổng số các nhà quản lý, giám đốc điều hành và chuyên gia phải là công dân Việt Nam. Yêu cầu này được đưa ra để khuyến khích nước ngoài chuyển giao công nghệ quản lý cho người Việt Nam. Tuy nhiên, mỗi doanh nghiệp nước ngoài sẽ được phép có tối thiểu 3 nhà quản lý, giám đốc điều hành và chuyên gia không phải là người Việt Nam.

Nhân sự khác: Các nhà quản lý, giám đốc điều hành và chuyên gia mà người Việt Nam không thể thay thế, do một doanh nghiệp nước ngoài đã thành lập hiện diện thương mại tại Việt Nam tuyển dụng bên ngoài lãnh thổ Việt Nam để tham gia vào hoạt động của doanh nghiệp này trên lãnh thổ Việt Nam, được phép nhập cảnh và lưu trú theo thời hạn của hợp đồng lao động có liên quan hoặc trong một thời gian lưu trú ban đầu là 3 năm, tùy theo thời hạn nào ngắn hơn. Sau đó, họ có thể được gia hạn thời gian cư trú tuỳ vào thời hạn của hợp đồng lao động giữa họ với hiện diện thương mại này.

Người chào bán dịch vụ: Là những người không sống tại Việt Nam và không nhận thù lao từ bất cứ nguồn nào tại Việt Nam, tham gia vào các hoạt động liên quan đến việc đại diện cho một nhà cung cấp dịch vụ để đàm phán tiêu thụ dịch vụ của nhà cung cấp đó, với điều kiện: (i) không được bán trực tiếp dịch vụ đó cho công chúng; và (ii) người chào bán không trực tiếp tham gia cung cấp dịch vụ. Thời gian lưu trú của những người chào bán dịch vụ này không được quá 90 ngày.

Người chịu trách nhiệm thành lập hiện diện thương mại: Đây là các nhà quản lý và giám đốc điều hành như định nghĩa tại mục (a) của một pháp nhân, chịu trách nhiệm thành lập hiện diện thương mại của một nhà cung cấp dịch vụ tại Việt Nam, với điều kiện (i) những người này không tham gia trực tiếp vào việc bán hàng hay cung cấp dịch vụ; và (ii) nhà cung cấp dịch vụ đó có địa bàn kinh doanh chính tại lãnh thổ của một thành viên WTO, không phải Việt Nam và chưa có bất kỳ hiện diện thương mại nào khác ở Việt Nam. Thời hạn lưu trú của những người này là không quá 90 ngày. Nhà cung cấp dịch vụ theo hợp đồng (CSS): Với đối tượng này, ở mức WTO, Việt Nam chỉ có cam kết trong một số rất ít dịch vụ: các dịch vụ liên quan đến máy tính (CP 841-845, 849) và dịch vụ tư vấn kỹ thuật (CPC 8672). CSS là các thể nhân làm việc trong một doanh nghiệp nước ngoài không có hiện diện thương mại tại Việt Nam. Đối tượng này có thể nhập cảnh và lưu trú tại Việt Nam trong thời hạn 90 ngày hoặc theo thời hạn hợp đồng, tùy thời hạn nào ngắn hơn, nếu đáp ứng được điều kiện và yêu cầu sau: Doanh nghiệp nước ngoài đã có hợp đồng dịch vụ với một doanh nghiệp Việt Nam hoạt động kinh doanh tại Việt Nam. Cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam có thể thiết lập các thủ tục cần thiết để bảo đảm tính xác thực của hợp đồng.

Những người này phải có: (a) bằng đại học hoặc chứng chỉ chuyên môn kỹ thuật chứng nhận có kiến thức tương đương; (b) trình độ chuyên môn, nếu cần, để thực hiện công việc trong lĩnh vực liên quan theo quy định của pháp luật Việt Nam; và (c) ít nhất 5 năm kinh nghiệm chuyên môn trong lĩnh vực này.

Số lượng các thể nhân quy định trong hợp đồng không được nhiều hơn mức cần thiết để thực hiện hợp đồng do pháp luật quy định và theo yêu cầu của Việt Nam.

Những người này đã làm việc cho doanh nghiệp nước ngoài không có hiện diện thương mại tại Việt Nam được ít nhất hai năm và phải đáp ứng các điều kiện đối với “chuyên gia” như đã mô tả ở trên.

Về cam kết cao hơn mức WTO trong các FTA của Việt Nam

Có 03 FTA đã có hiệu lực với cam kết MNP cao hơn mức WTO là CPTPP và ASEAN - Ấn Độ (AIFTA) và EVFTA. Cả 03 FTA này đều chỉ cam kết đối với 05 nhóm đối tượng như trong cam kết WTO, tuy nhiên có điều chỉnh về thời gian cư trú và mở thêm 01 số phân ngành, cụ thể như sau:

Với CPTPP: Cam kết MNP nằm trong Chương 12 về Nhập cảnh tạm thời cho Khách kinh doanh của Hiệp định. Mỗi thành viên CPTPP và Việt Nam lại có một Biểu cam kết riêng. Các thay đổi chính so với cam kết WTO như sau: Người di chuyển trong nội bộ doanh nghiệp (ICT): Bổ sung đối tượng là  vợ/chồng và người phụ thuộc của đối tượng này được hưởng thời gian nhập cảnh và lưu trú tạm thời như ICT; Người chào bán dịch vụ: Cam kết tăng thời gian lưu trú lên tới 6 tháng (thay vì thời gian cam kết là 90 ngày như trong WTO); Người cung cấp dịch vụ theo hợp đồng (CSS): Cam kết thêm 14 phân ngành so với cam kết trong WTO, nâng tổng số phân ngành cam kết lên tới 16 phân ngành, đồng thời tăng thời gian lưu trú lên tới 6 tháng (thay vì thời gian cam kết là 90 ngày như trong WTO);  Người chịu trách nhiệm thành lập hiện diện thương mại: Cam kết tăng thêm thời gian lưu trú lên tới 1 năm (thay vì thời gian cam kết là 90 ngày như trong WTO), bổ sung đối tượng là vợ/chồng và người phụ thuộc của đối tượng này.

Nhân sự khác tương tự cam kết WTO.

Với EVFTA: Về hình thức: Cam kết di chuyển thể nhân trong EVFTA được trình bày trong phần lời văn của mục D - Chương và Phụ lục 8-B-2, phần Biểu cụ thể; Khách kinh doanh và người di chuyển nội bộ doanh nghiệp: Về thời gian lưu trú tương tự cam kết WTO, nhưng không đề cập đến việc gia hạn thời gian lưu trú như cam kết WTO. Tuy nhiên, cam kết trong EVFTA bổ sung thêm là ít nhất 20% tổng số các nhà quản lý, giám đốc điều hành và chuyên gia phải là công dân Việt Nam, trừ phi không thể thay thế bởi người Việt Nam. Thêm đối tượng nhân viên thực tập, thời gian lưu trú là 01 năm. Tuy nhiên, Việt Nam chỉ phải thực hiện nghĩa vụ về nhân viên thực tập 03 năm sau khi Hiệp định có hiệu lực. Ngoài ra, Việt Nam còn bổ sung thêm cam kết về việc không được duy trì hạn chế số lượng thể nhân và kiểm tra nhu cầu kinh tế đối với các ngành tự do hóa ở phần B của Chương 8; Người chào bán dịch vụ, và người chịu trách nhiệm thành lập hiện diện thương mại: Tương tự cam kết WTO; Nhà cung cấp dịch vụ theo hợp đồng: So với cam kết WTO, Việt Nam bổ sung điều kiện thể nhân phải cung cấp dịch vụ này ít nhất 2 năm. So với mức WTO, AIFTA chỉ cam kết thêm 01 phân ngành là dịch vụ kiến trúc đối với đối tượng người cung cấp dịch vụ theo hợp đồng. Cam kết đối với các nhóm đối tượng khác vẫn ngang bằng mức cam kết trong WTO.

Nguồn: TS. Trịnh Minh Anh, chuyên gia kinh tế cao cấp.