Tình hình thế giới và khu vực thời gian qua diễn biến rất bất ngờ và phức tạp, kinh tế thế giới đã và đang đứng trước rất nhiều thách thức kéo dài, cạnh tranh giữa các nước lớn vẫn hết sức gay gắt, rủi ro địa chính trị, địa kinh tế gia tăng; chiến tranh tại một số quốc gia, khu vực trên thế giới chưa thấy hồi kết, thương chiến lần 2 bùng nổ, tăng trưởng kinh tế thế giới giảm tốc, nguy cơ lạm phát quay trở lại đi kèm những biến động lớn của thị trường tài chính,…
Tập trung nhiều sự quan tâm nhất là việc Hoa Kỳ thay đổi chính sách thương mại tồn tại hơn 70 năm từ “ủng hộ tự do thương mại” sang “chủ nghĩa bảo hộ” thông qua chính sách thuế đối ứng đã tạo ra những rủi ro, bất ổn lớn cho hệ thống thương mại đa phương, buộc các nền kinh tế trên thế giới phải thay đổi chiến lược tiếp cận của mình. Các nước một mặt vẫn tiếp tục đàm phán để duy trì quan hệ thương mại với Hoa Kỳ, mặt khác tìm kiếm các kênh riêng để tăng cường trao đổi thương mại, đa dạng hóa thị trường thông qua các thỏa thuận thương mại tự do, và liên kết khu vực... Bên cạnh đó, với sự ảnh hưởng từ chính sách của Hoa Kỳ, nhiều quốc gia đang có xu hướng tăng cường các biện pháp bảo hộ trong nước, đặt ra nhiều rào cản mới đối với hàng hóa nhập khẩu, thậm chí sẵn sàng xem xét đơn phương áp đặt các biện pháp trừng phạt hoặc hạn chế thương mại không phù hợp với quy định của Tổ chức Thương mại thế giới WTO.
Phong cách lãnh đạo không dựa trên luật lệ, khó lường và mang đầy màu sắc chủ nghĩa dân tộc của Tổng thống Trump đã và đang tác động mạnh mẽ đến các nước và chính bản thân nước Mỹ. Cụ thể, lạm phát tại Mỹ tháng 9 vừa qua đã tăng trở lại lên mức 3% do bởi giá hàng hóa tiêu dùng thiết yếu tăng mạnh (hàng chục %) trong thời gian qua. Nhà nhập khẩu và người tiêu dùng Mỹ đang là đối tượng gánh phần lớn các chi phí gia tăng này. Trước sức ép lạm phát quay trở lại, ngày 14/11, Tổng thống Trump ký sắc lệnh miễn thuế đối ứng với hàng loạt thực phẩm như cà phê, trà, trái cây nhiệt đới và nước ép trái cây, hạt cacao, gia vị, chuối, cam, cà chua, thịt bò và một số loại phân bón,…
Các chính sách thuế quan của Tổng thống Trump có đặc điểm là được ban hành dồn dập nhưng cũng thay đổi chóng mặt. Có những loại thuế nhắm vào hoạt động buôn lậu hàng cấm; có những loại nhằm cải thiện cán cân thương mại, một số trong đó thì được rút lại sau đó. Thuế quan với Trung Quốc thì liên tục thay đổi, lúc tăng, lúc lại tăng thêm, rồi giảm nhẹ, và giảm tiếp.
Đơn cử, giữa tháng 10 vừa qua, Tổng thống Trump tuyên bố sẽ áp thêm mức thuế 100% lên hàng hóa XK của Trung Quốc bắt đầu từ ngày 1/11, không kể mức thuế 30% đang có hiệu lực, xuất phát từ việc Trung Quốc siết chặt thêm kiểm soát xuất khẩu đất hiếm thành phẩm. Ngay lập tức, TT tài chính chứng khoán, tiền số,… trở nên hoảng loạn cực độ, bán tháo, khiến tổng thiệt hại lên gần 3000 tỷ USD trong 1 đêm. Nếu việc áp thuế này xảy ra sẽ khiến cuộc chiến thương mại giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới leo thang nghiêm trọng sau nhiều tháng đình chiến. Cả 2 nước đều chịu ảnh hưởng nặng nề từ cuộc chiến này (như với ngành thương mại đậu tương - thiệt hại lớn cho nông dân Mỹ - vốn là nước xuất khẩu đậu tương số 1 thế giới). Giới phân tích cho rằng, nếu mức thuế 130% đc áp dụng thì thị trường Mỹ gần như đóng cửa hoàn toàn với hàng hóa Trung Quốc. Tuy nhiên sau cuộc gặp cuối tháng 10 giữa Tổng thống Trump và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, phía Trung Quốc quyết định tạm ngừng một loạt biện pháp kiểm soát xuất khẩu với các nguyên liệu chiến lược như đất hiếm, vật liệu pin lithium và các vật liệu siêu cứng; khôi phục quyền xuất khẩu đậu nành sang Trung Quốc cho ba công ty lớn của Mỹ; dỡ bỏ lệnh tạm ngừng nhập khẩu gỗ từ Mỹ; và cam kết siết chặt kiểm soát xuất khẩu các hóa chất tiền chất fentanyl (chất gây nghiện) thì phía Mỹ tuyên bố tạm thời không áp mức thuế bổ sung 100% như đã nêu. Như vậy, sử dụng thuế quan như biện pháp tối ưu đạt được các mục tiêu đàm phán là chiến lược lớn của Tổng thống Trump trong nhiệm kỳ này, và việc ông tiếp tục sử dụng trong thời gian tới để gây sức ép lên hệ thống thương mại đa phương và quan hệ TM song phương là chắc chắn, làm cho thương chiến trở nên căng thẳng hơn.
Các tổ chức quốc tế nhận định cuộc thương chiến này sẽ khiến thương mại và đầu tư toàn cầu sụt giảm mạnh hơn nhiều so với những gì các dự báo hiện tại đưa ra. Tăng trưởng toàn cầu dự kiến sẽ giảm khá mạnh xuống còn 2.2% trong năm 2025, thấp hơn mức 2.6% của dự báo tháng 1/2025. Tăng trưởng thấp khiến các yếu tố xã hội, chính trị và kể cả chính sách tài khóa của các nước trở nên mong manh hơn, từ đó làm gia tăng cảm nhận về rủi ro trên thị trường. Điều này có thể tạo ra một vòng luẩn quẩn: Chi phí tài chính tăng cao khiến rủi ro leo thang, còn tăng trưởng thì tiếp tục suy giảm. Những doanh nghiệp yếu về tài chính và quản trị, dù là khu vực tư nhân hay nhà nước, đều có nguy cơ rơi vào tình trạng vỡ nợ. Khi đó, bất kỳ cú sốc nào từ thiên tai hay xung đột cũng sẽ càng khiến thiệt hại kinh tế trở nên nghiêm trọng hơn. Chỉ số đo lường sự bất định tăng vọt tại các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển.
Về tình hình đàm phán thoả thuận song phương về Thương mại đối ứng giữa Việt Nam và Hoa Kỳ
Đến nay, Việt Nam và Hoa Kỳ đã tổ chức 05 phiên đàm phán chính thức, nhiều phiên chuyên đề và nhiều phiên họp cấp Bộ trưởng cả trực tiếp lẫn trực tuyến với Bộ trưởng Thương mại Hoa Kỳ (USTR) và Trưởng Đại diện thương mại Hoa Kỳ (USTR). Trong quá trình đàm phán, Việt Nam và Hoa Kỳ đã tập trung thảo luận và đạt được nhiều tiến bộ trong các vấn đề như dịch vụ, thương mại số, nông nghiệp, hàng rào kỹ thuật liên quan thương mại (TBT), tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm (SPS)... và thu hẹp khoảng cách trong các vấn đề còn lại như thuế quan, quy tắc xuất xứ,… Cho đến hiện tại, thuế đối ứng dành cho Việt Nam đang mức 20% (ngang bằng so với các nước có cùng trình độ phát triển, cùng đang xuất khẩu một số chủng loại măt hàng sang Hoa Kỳ). Tại các cuộc gặp Lãnh đạo các Hiệp hội kinh doanh da giầy, hay bán dẫn của Hoa Kỳ, phía đối tác đánh giá rất cao Việt Nam kiên trì theo đuổi đàm phán thương mại đối ứng với Hoa Kỳ bằng tinh thần chủ động và thiện chí. Sự nhất quán ấy khiến các doanh nghiệp cảm thấy tin cậy, bởi khi một quốc gia giữ lập trường rõ ràng và minh bạch thì doanh nghiệp có thể yên tâm đầu tư lâu dài.
Trong cuộc họp tổng kết phiên đàm phán mới đây ngày 15/11, Đại diện Cơ quan thương mại Hoa Kỳ (USTR) và Đoàn đàm phán Việt Nam đều cho rằng phiên đàm phán có kết quả rất tích cực, tạo cơ sở thuận lợi cho việc sớm hoàn tất Hiệp định thương mại đối ứng Việt Nam – Hoa Kỳ. Trưởng đoàn Việt Nam đã nhấn mạnh phía Việt Nam đã thể hiện thiện chí trong đàm phán thương mại, giúp Hoa Kỳ đạt được nhiều kết quả thuận lợi đối với các đối tác. Vì vậy, Việt Nam mong muốn cách giải quyết hợp lý, linh hoạt, phù hợp với quan hệ đối tác chiến lược toàn diện và đề nghị Hoa Kỳ xem xét các vấn đề như đưa Việt Nam ra khỏi danh sách D1 và D3 hạn chế xuất khẩu các sản phẩm công nghệ cao và công nhận nền kinh tế thị trường của Việt Nam, qua đó tạo nền tảng thúc đẩy hợp tác mạnh mẽ hơn nữa trong thời gian tới. Hướng tới tăng cường hợp tác về công nghệ dẫn đầu, xây dựng hệ sinh thái công nghệ cao và thúc đẩy cơ chế bảo vệ các ngành công nghiệp nền tảng, nhất là lĩnh vực bán dẫn và AI. Hai phía Việt Nam-Hoa Kỳ cũng nhấn mạnh hai cách tiếp cận song song gồm thúc đẩy Hiệp định thương mại đối ứng và mở rộng hợp tác chiến lược về an ninh kinh tế, chuỗi cung ứng và công nghệ; đồng thời đề xuất xây dựng các nguyên tắc chung, làm cơ sở hình thành các MOU theo từng lĩnh vực và triển khai các dự án thí điểm.
Dự kiến sẽ tổ chức một số cuộc họp và đàm phán trực tuyến cấp kỹ thuật và cấp Bộ trưởng trong tháng 11 và tháng 12 để tiếp tục thảo luận và xử lý tốt các vấn đề còn tồn tại, hướng đến các cuộc gặp gỡ chính thức ở cấp cao hơn trong thời gian tới (cuối tháng 1?)
Về các xu hướng lớn trong thương mại toàn cầu – vấn đề quan trọng bậc nhất của hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay - tập trung nói về phát triển TM bền vững:
Bối cảnh thương mại toàn cầu hiện nay đang chịu tác động đồng thời của bốn xu hướng lớn, mang tính định hình lại “luật chơi” quốc tế và vị thế của mỗi quốc gia.
Thứ nhất, cạnh tranh giữa các cường quốc và căng thẳng khu vực làm gia tăng xu hướng phân mảnh địa chính trị và cả phân mảnh thương mại toàn cầu, buộc các nhà nhập khẩu và doanh nghiệp phải cân nhắc rủi ro an ninh và độ tin cậy của chuỗi cung ứng bên cạnh hiệu quả kinh tế. Với Việt Nam, bối cảnh trên kéo theo nhiều rủi ro và sức ép mới, nguy cơ bị cuốn vào các tranh chấp thương mại quốc tế ngày càng tăng, thể hiện qua việc nhiều mặt hàng xuất khẩu sang Hoa Kỳ như gỗ dán, thép và nhôm,… bị áp thuế đối ứng, đặc biệt là những sản phẩm sử dụng nguồn nguyên liệu đầu vào từ Trung Quốc. Bên cạnh đó là sự hình thành các khối công nghệ và chiến lược friend-shoring (chuyển dịch sản xuất về các nước đối tác tin cậy) có nguy cơ gây hạn chế khả năng tiếp cận công nghệ cao của Việt Nam - vốn đang phụ thuộc lớn vào nhập khẩu linh kiện và công nghệ từ nhiều nguồn khác nhau. Xu hướng chuyển dịch này đang thay thế động lực truyền thống thuần túy dựa trên lợi thế so sánh trước đây là chi phí rẻ, nhân công rẻ, môi trường đầu tư ưu đãi,…
Thứ hai, Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư đang thúc đẩy sự nổi lên của mô hình thương mại dựa trên dữ liệu, với khoảng 60% giao dịch được hỗ trợ bởi công nghệ số.
Thứ ba, yêu cầu về phát triển bền vững trở thành tiêu chuẩn thị trường bắt buộc: các quy định và tiêu chí môi trường–xã hội–quản trị (ESG), cơ chế điều chỉnh biên giới carbon của Liên minh Châu Âu (CBAM - sẽ đánh thuế carbon đối với tất cả hàng hóa nhập khẩu vào thị trường dựa trên cường độ phát thải khí nhà kính trong quy trình sản xuất tại nước sở tại) và các công cụ chính sách xanh khác đang chuyển từ khuyến khích sang điều kiện tiên quyết để tiếp cận thị trường. Việt Nam đã thể hiện cam kết mạnh mẽ bằng mục tiêu đạt phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050. Tuy nhiên, các ngành xuất khẩu chủ lực như thép, xi măng, dệt may, và thủy sản có cường độ phát thải cao và đang phải chịu sức ép lớn từ các tiêu chuẩn xanh mới. Bên cạnh đó, chi phí tuân thủ, đầu tư vào công nghệ sạch, hệ thống giám sát chuỗi cung ứng và chứng chỉ quốc tế tạo ra gánh nặng lớn cho doanh nghiệp, đặc biệt là các SMEs trong việc đầu tư công nghệ xanh (giảm phát thải, tiết kiệm năng lượng), hệ thống truy xuất nguồn gốc kỹ thuật số và chuyển đổi sang năng lượng tái tạo để tạo ra sản phẩm xanh, sạch, thân thiện với môi trường. Nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp và người tiêu dùng chưa đồng đều cũng cản trở việc triển khai đồng bộ các tiêu chuẩn về thương mại bền vững. Nhiều doanh nghiệp nhỏ vẫn coi bền vững chỉ là yêu cầu tuân thủ tối thiểu thay vì chiến lược phát triển.
Tuy nhiên, phải khẳng định và ghi nhớ rằng gắn kết thương mại với phát triển bền vững không còn là lựa chọn mà đã trở thành điều kiện bắt buộc để duy trì khả năng tiếp cận các thị trường quốc tế, đặc biệt với thị trường có tiêu chuẩn bền vững khắt khe như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản…
Hiện tại, ở cấp độ ngành: Nhiều ngành sản xuất chủ lực đã lồng ghép mục tiêu phát triển bền vững vào chiến lược phát triển của mình, tạo tiền đề quan trọng cho doanh nghiệp. Ở cấp độ doanh nghiệp, nhận thức về phát triển bền vững tăng cao: 60% doanh nghiệp Việt Nam đã có cam kết hoặc kế hoạch cam kết thực hành các tiêu chuẩn ESG. Các doanh nghiệp lớn đã bắt đầu ban hành chính sách nội bộ về bảo vệ người lao động, cộng đồng và môi trường, đặc biệt dưới tác động của các FTA thế hệ mới và xu hướng đầu tư xanh.
Đối với lĩnh vực nông sản: Chuyển dịch mạnh mẽ sang sản xuất hữu cơ, áp dụng các giải pháp ứng phó biến đổi khí hậu (ví dụ: mô hình sản xuất sầu riêng sạch, nhãn hiệu “Gạo Việt xanh phát thải thấp”). Xuất khẩu nông sản hữu cơ năm 2024 đạt 556 triệu USD/năm.
Đối với ngành thủy sản: Chuyển hướng nuôi trồng hiện đại, bền vững (nuôi biển) và triển khai các biện pháp chống khai thác IUU (bất hợp pháp, không báo cáo và không đúng quy định). Việt Nam có hơn 500 trang trại nuôi tôm và 100 trang trại nuôi cá tra đạt chứng nhận nuôi trồng bền vững (ASC).
Đối với ngành gỗ và sản phẩm từ gỗ: Tăng cường chuyển đổi sang sản phẩm bền vững, có chứng nhận FSC (Quản lý rừng bền vững) và gỗ rừng trồng để đáp ứng luật mới của Nhật Bản, Hoa Kỳ và EU.
Đối với ngành dệt may: Thực hiện chiến lược xanh hóa chuỗi sản xuất (ví dụ: Vinatex đo lường dấu chân carbon, May 10 thay thế nhiên liệu hóa thạch). Nhiều doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất sợi tái chế (SYRE, Sợi Thế kỷ…).
Thứ 4, sự giao thoa của các yếu tố này đang buộc chuỗi giá trị toàn cầu (GVCs) phải tái cấu trúc sâu sắc, dịch chuyển trọng tâm từ ưu tiên hiệu quả chi phí sang ưu tiên về an ninh, sức chống chịu và tính minh bạch.
Về Nghị quyết số 59-NQ/TW: Những thách thức nêu trên đặt ra yêu cầu cấp thiết đối với Việt Nam trong việc tìm kiếm và khai thác các động lực tăng trưởng mới, nhằm chuyển dịch từ mô hình tăng trưởng dựa trên chi phí sang mô hình dựa trên năng suất và đổi mới sáng tạo, đồng thời giải quyết triệt để những điểm nghẽn cấu trúc nội tại của nền kinh tế. Đây cũng chính là bước cụ thể hóa các chủ trương, định hướng lớn của Đảng và Nhà nước về phát triển và hội nhập trong giai đoạn mới, đặc biệt được thể hiện trong Nghị quyết số 59-NQ/TW năm 2025 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế trong tình hình mới. NQ59 xác định hội nhập kinh tế quốc tế đóng vai trò trung tâm của quá trình hội nhập và đề ra định hướng "Nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế phục vụ xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng và thúc đẩy chuyển đổi số". Như vậy, hội nhập kinh tế không chỉ tập trung vào việc mở rộng thị trường, thu hút đầu tư, mà còn phải thúc đẩy nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, khai thác tối đa các hiệp định thương mại tự do (FTA), tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu, và bảo vệ lợi ích quốc gia trong bối cảnh cạnh tranh địa chính trị, địa kinh tế hết sức gay gắt. Trong tình hình thế giới phức tạp hiện nay, với các thách thức từ biến đổi khí hậu, chuyển đổi số và cách mạng công nghiệp 4.0, hội nhập kinh tế quốc tế chính là động lực quan trọng để Việt Nam đạt mục tiêu tăng trưởng hơn 8% năm 2025 và tăng trưởng hai con số giai đoạn 2026-2030, như định hướng của Đảng và Chính phủ.
Để cụ thể hoá NQ 59, Chính phủ cũng đã ban hành Nghị quyết 153/NQ-CP ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 59-NQ/TW, các Bộ ngành địa phương cũng đã có các Chương trình/Kế hoạch hành động với những nhiệm vụ cu thể thực hiện Nghị quyết số 153/NQ-CP.
Khuyến nghị: Trong thời gian tới, bối cảnh kinh tế - chính trị thế giới sẽ tiếp tục chứng kiến sự tái định hình sâu sắc các cấu trúc địa chính trị, địa kinh tế, trật tự chiến lược và thương mại toàn cầu; chủ nghĩa bảo hộ gia tăng, chính sách thuế đối ứng của Hoa Kỳ; các vụ kiện phòng vệ thương mại, hàng rào kỹ thuật xanh của EU, và ngày càng nhiều những yêu cầu mới về phát triển bền vững,…
Nguồn: TS. Cao Mạnh Cường, chuyên gia kinh tế