Nhìn lại bức tranh kinh tế thế giới năm 2024, có thể thấy những nét lớn sau:
Kinh tế toàn cầu tăng trưởng nhẹ nhưng vẫn còn những yếu tố bất định
Trong năm 2024, kinh tế toàn cầutiếp tục phải đối mặt với một số thách thức lớn như chiến tranh, xung đột vẫn chưa hạ nhiệt ở một số quốc gia, thậm còn có thêm những diễn biến phức tạp ở khu vực Trung Đông. Thêm vào đó, tình hình thời tiết khắc nghiệtnhư nắng nóng kỷ lục và siêu bão đã gây thiệt hại nghiêm trọng ở nhiều khu vực trên thế giới. Tuy vậy, bức tranh kinh tế vẫn có những điểm sáng, thể hiện ở tốc độ tăng trưởng GDP toàn cầu năm nay ước đạt 3,2%, nhỉnh hơn mức 3,1% vào năm trước. Điều đáng mừng là lạm phát đang dần hạ nhiệt ở nhiều quốc gia nhờ giá hàng hóa, đặc biệt là giá năng lượng và lương thực giảm. Trong báo cáo công bố tháng 10/2024, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) dự báo tốc độ lạm phát toàn cầu năm 2024 giảm còn 5,8%, từ mức 6,7% của năm 2023 và sẽ tiếp tục hạ về 4,3% vào năm 2025. Trong khi đó, nhu cầu toàn cầu tăng mạnh, giúp củng cố thương mại và đầu tư, vốn là động lực quan trọng hỗ trợ hoạt động kinh tế toàn cầu.
Khu vực châu Á- Thái Bình Dương đem lại những gam màu tươi sáng cho kinh tế thế giới năm 2024 khi đóng góp khoảng 60% vào tăng trưởng kinh tế toàn cầu với “sức mạnh tập trung ở các nền kinh tế mới nổi”. Ngược lại, kinh tế châu Âu tiếp tục gặp nhiều khó khăn xuất phát từ nhiều nguyên nhân như giá nhiên liệu cao và thiếu sức cạnh tranh. Đặc biệt, hai nền kinh tế lớn nhất khu vực là Đức và Pháp đều phải đối mặt với những cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc, làm lung lay cả nền tảng kinh tế và vị thế quốc tế của khu vực. Dự báo trong năm 2025, khu vực này sẽ còn phải đối mặt với những rủi ro lớn như căng thẳng địa chính trị, gia tăng bảo hộ thương mại và áp lực từ chính sách của Mỹ.
Biến động về chính trị báo hiệu những thay đổi về chính sách tại một số nước lớn
Nổi bật trong năm 2024 là cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ diễn ra vào tháng 11, có tầm ảnh hưởng lớn không chỉ với tương lai của nước Mỹ, mà còn với phần còn lại của thế giới.Là cường quốc kinh tế, quân sự, chính trị số một thế giới, chính sách kinh tế và đối ngoại của Mỹ có ảnh hưởng lớn tới các quốc gia trên thế giới và các khung khổ hợp tác quốc tế mà Mỹ là thành viên. Qua mỗi giai đoạn, các chính sách này lại có những sự thay đổi theo quan điểm và cách điều hành của Tổng thống - người đứng đầu nước Mỹ. Năm 2024 đánh dấu sự trở lại của Donal Trump, tổng thống thứ 45 và vừa tái đắc cử để trở thành tổng thống thứ 47 của Hoa Kỳ. Tuyên bố đầy tự tin “Nước Mỹ sẽ trở lại và vĩ đại hơn bao giờ hết!” của ông Trump trong đêm chiến thắng không chỉ là khẩu hiệu tranh cử mà còn báo hiệu những thay đổi sâu sắc về đối nội và đối ngoại của Washington thời gian tới.Việc ông Trump đắc cử có thể là tin mừng cho hòa bình thế giới khi ông thề sẽ sẽ “chấm dứt chiến tranh”, tuy nhiên cũng mang tới mối lo ngại cho giới đầu tư và các nhà hoạch định chính sách ở nhiều quốc gia bởi trong chiến dịch tranh cử, ông Trump đã đưa ra một số chủ trương như áp thuế quan mạnh tay lên hàng hóa nhập khẩu, trục xuất người nhập cư trái phép và giảm thuế, thậm chí có những tuyên bố gây sốc như sẽ hủy bỏ Hiệp định Thương mại khuôn khổ Kinh tế Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (IPEF)đã và đang được Tổng thống Mỹ đương nhiệm Joe Biden thúc đẩy. Nếu được thực thi, những chính sách này của ông Trump có thể gây biến động dòng chảy thương mại toàn cầu, định hình lại mối quan hệ giữa các quốc gia, làm khơi dậy cuộc chiến tranh thương mại được thổi bùng từ nhiệm kỳ trước vẫn đang âm ỉ trong 4 năm qua và buộc một số quốc gia như Trung Quốc, các nước khối EU, phải có những điều chỉnh chính sách để ứng phó với những ảnh hưởng từ những quyết sách này.Và không còn là dự đoán, ngọn lửa “chiến tranh thương mại” đã bắt đầu bùng phát trở lại và thậm chí có nguy cơ lan rộng hơn trước khi ngày 2/2/2025, Tổng thống Trump đã ký sắc lệnh áp thuế 10% với toàn bộ hàng nhập khẩu từ Trung Quốc và 25% đối với hầu hết mặt hàng từ Canada cùng Mexico. Ngay sau đó, các quốc gia này đã có những động thái cho thấy sẽ tung đòn đáp trả lại lệnh áp thuế của Mỹ.Tuy nhiên, điều này không cản trở được quyết tâm dùng công cụ thuế quan để điều chỉnh luồng thương mại của người đứng đầu nước Mỹ. Bằng chứng là, ngày 10/2, Tổng thống Donald Trump tuyên bố sẽ áp thuế 25% đối với tất cả thép và nhôm nhập khẩu vào Mỹ và sẵn sàng đáp trả bất cứ nước nào.
Trong năm 2024, thế giới cũng chứng kiến tình trạng rối ren về chính trị diễn ra tại hai đầu tàu kinh tế Liên minh châu Âu (EU) là Ðức và Pháp. Trong khi nước Pháp có Thủ tướng thứ tư chỉ trong vòng một năm, nước Ðức đang hướng về cuộc bầu cử sớm diễn ra vào tháng 2/2025 sau sự sụp đổ của Chính phủ Thủ tướng Olaf Scholz. Trục Pháp-Ðức lung lay khiến EU thiếu đi sự lãnh đạo quyết đoán để có những phản ứng tập thể nhanh chóng trước các cuộc khủng hoảng. Trong bối cảnh này, rất có thểTổng thống đắc cử Mỹ Donald Trump sẽ thay đổi cách tiếp cận đối với châu lục này trong vấn đề quốc phòng, thương mại.
Một sự kiện khác khiến dư luận bất ngờ là việc chính trường Hàn Quốc xáo trộn khi cả Tổng thống, quyền Tổng thống đối mặt phiên luận tội vì trách nhiệm liên quan việc ban bố tình trạng thiết quân luật. Căng thẳng lại gia tăng trên bán đảo Triều Tiên với những động thái chạy đua quân sự, đẩy mối quan hệ giữa hai miền Triều Tiên xuống mức thấp... Trong khi đó, chiến tranh xung đột tại châu Âu và Trung Đông vẫn chưa có hồi kết đã cho thấy một môi trường địa chính trị toàn cầu ngày càng phức tạp và các quốc gia, dù muốn hay không đều phải có những điều chỉnh chính sách để ứng phó với những biến động của môi trường quốc tế.
Khối BRICS mở rộng thành viên và xu hướng phi đô la hóa
Nhóm các nền kinh tế mới nổi hàng đầu thế giới (BRICS) được thành lập năm 2006, gồm Brazil, Nga, Ấn Độ và Trung Quốc và đến năm 2011 có thêm sự tham gia của Nam phi. Mục tiêu của Khối này là trở thành một thể chế chính trị, kinh tế và tài chính toàn cầu nhằm phản ánh tương quan lực lượng theo hướng công bằng, cân bằng và có tính đại diện cao hơn. Trong trật tự thế giới đa cực đang hình thành, BRICS đang nổi lên và có tiềm năng trở thành một trụ cột mới trong hệ thống đa phương. Năm 2024 đánh dấu bước phát triển mới của khối này khi BRICS chào đón 4 thành viên mới là Iran, Ai Cập, Ethiopia và Các tiểu vương quốc Arab thống nhất. Mới đây nhất, tháng 1 năm 2025, chính phủ Brazil thông báo Indonesia chính thức gia nhập tổ chức này.Hiện nay, nhiều quốc gia khác cũng đang ngỏ ý tham gia BRICS, qua đó thể hiện tầm ảnh hưởng kinh tế và chính trị ngày càng tăng của khối này trên trường quốc tế.
Một trong những định hướng hợp tác và phát triển của BRICS là thúc đẩy các giải pháp giảm sự phụ thuộc vào đồng đô-la Mỹ và hệ thống tài chính – tiền tệ phương Tây, xây dựng hệ thống thanh toán nội khối. Ngày 11/6/2024, hệ thống thanh toán mới của BRICS đã được xác nhận và sẽ trở thành đối thủ cạnh tranh với hệ thống thanh toán bằng đồng USD - đồng tiền dự trữ toàn cầu hiện tại. Theo sau các nước BRICS, một số nhóm mới đang tích cực tìm kiếm các giải pháp thay thế cho đô la Mỹ trong thương mại quốc tế trong đó có Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO) - một tổ chức an ninh chung liên chính phủ được thành lập năm 2001 gồm các quốc gia thành viên là Trung Quốc, Nga, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Tajikistan và Uzbekistan. Những hành động theo đuổi mục tiêu phi đô la hóa phản ánh mong muốn về độc lập kinh tế và hệ thống tiền tệ toàn cầu đa dạng hơn. Mặc dù hành động này có vẻ sẽ phải đối mặt với không ít thách thức nhưng cũng mở ra triển vọng về một sự tái cân bằng sức mạnh kinh tế toàn cầu và các quốc gia trước đây bị gạt ra ngoài lề có thể có tiếng nói mạnh mẽ hơn trong các cuộc đàm phán thương mại quốc tế.
Công nghệ AI phát triển mạnh mẽ, đặt ra yêu cầu ứng phó với những thách thức
Hiện nay trí tuệ nhân tạo (AI) gần như ảnh hưởng đến tất cả lĩnh vực, bao gồm cả những ảnh hưởng to lớn đối với nền kinh tế. AI có thể tạo ra một bước tiến nhảy vọt về năng suất, sản sinh của cải vật chất lớn hơn, giúp cải thiện năng suất làm việc. Việc làm chủ những công nghệ tiên tiến sẽ mang đến nhiều lợi ích vô cùng lớn cho sự phát triển kinh tế tại các quốc gia trên thế giới. Với sự phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng, hiện nay, AI không còn là công nghệ của tương lai mà trở thành động lực chủ đạo thay đổi nền tảng xã hội và kinh tế toàn cầu.Tuy nhiên, những bước phát triển mạnh mẽ của AI cũng đặt ra những thách thức cho nhân loại trong việc sáng tạo và ứng dụng công nghệ an toàn và hiệu quả.
Năm 2024 mở ra chương mới của trí tuệ nhân tạo (AI) khi ngày 21-3, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua bằng hình thức đồng thuận một nghị quyết về việc thúc đẩy các hệ thống trí tuệ nhân tạo (AI) “an toàn, bảo mật và đáng tin cậy” nhằm kêu gọi các nước chung tay bảo vệ quyền con người, bảo vệ dữ liệu cá nhân và kiểm soát những rủi ro tiềm ẩn từ công nghệ này. Nghị quyết là sáng kiến mới nhất trong một loạt sáng kiến của các chính phủ trên thế giới nhằm định hình sự phát triển của AI. Trước đó, ngày 13-3, Nghị viện châu Âu cũngđã thông qua đạo luật AI, đưa Liên minh châu Âu (EU) tiến gần hơn tới việc có những quy định toàn diện đầu tiên trên thế giới nhằm quản lý AI. Bên cạnh đó nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Mỹ và Trung Quốc cũng đang xúc tiến xây dựng các quy định về quản lý AI. Dự báo, trong năm 2025, ngành công nghiệp AI sẽ không chỉ chứng kiến những tiến bộ công nghệ vượt bậc, mà còn phải đối mặt với những thách thức lớn trong việc đảm bảo tính minh bạch, bảo mật và bền vững.
Trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động về chính trị và kinh tế nhưng nền kinh tế Việt Nam vẫn đạt được những kết quả tích cực
Vượt qua những khó khăn, thách thức, Việt Nam trở thành ngôi sao tăng trưởng của Đông Nam Á và dẫn đầu ASEAN- 6 về tăng trưởng kinh tế.
Theo Tổng cục Thống kê, tốc độ tăng GDP của Việt Nam năm 2024 đạt 7,09%, nâng quy mô GDP nền kinh tế lên mức 11.512 ngàn tỉ đồng, tương đương khoảng 476 tỉ USD, trong top 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới. GDP bình quân đầu người đạt 4.700 USD/người, tăng 377 USD so với năm 2023. Như vậy, đúng như cách gọi của HSBC, Việt Nam đã trở lại như một ngôi sao tăng trưởng trong khu vực và hiện dẫn đầu nhóm ASEAN-6 (gồm Việt Nam, Malaysia, Singapore, Indonesia, Philippines và Thái Lan) về tăng trưởng kinh tế. Đóng góp vào bức tranh tổng thể của nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2024 đạt mức tăng trưởng tích cực 3,27% mặc dù chịu ảnh hưởng của thiên tai, bão lũ. Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp phục hồi tích cực và tăng trưởng mạnh mẽ so với năm 2023. Giá trị tăng thêm ngành công nghiệp năm 2024 tăng 8,32% so với năm trước. Các hoạt động thương mại, du lịch duy trì đà tăng trưởng cao, đóng góp tích cực vào tăng trưởng của khu vực dịch vụ. Giá trị tăng thêm khu vực dịch vụ năm 2024 tăng 7,38% cao hơn tốc độ tăng 6,91% của năm 2023.
Bước đột phá trong hoàn thiện pháp luật, thúc đẩy sự phát triển khi Quốc hội Việt Nam đã thông qua nhiều dự thảo luật quan trọng với tinh thần cải cách đột phá, tháo gỡ kịp thời "nút thắt" về thể chế.
Cụ thể, tại Kỳ họp bất thường (tháng 1/2024), Quốc hội khóa XV đã biểu quyết thông qua Luật Đất đai (sửa đổi) với tỉ lệ tán thành cao. Đặc biệt, tại Kỳ họp thứ 8 (tháng 11/2024), Quốc hội đã thông qua 18 luật (bao gồm các Luật liên quan đến lĩnh vực kinh tế như Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quy hoạch, Luật Đầu tư, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư và Luật Đấu thầu; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán, Luật Kế toán, Luật Kiểm toán độc lập, Luật Ngân sách nhà nước, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công, Luật Thuế thu nhập cá nhân, Luật Quản lý thuế, Luật Dự trữ quốc gia, Luật Xử lý vi phạm hành chính; Luật Điện lực sửa đổi) và 21 Nghị quyết, trong đó có 04 Nghị quyết quy phạm pháp luật trên tinh thần đổi mới mạnh mẽ về tư duy trong công tác lập pháp theo hướng vừa bảo đảm yêu cầu quản lý nhà nước, vừa khuyến khích sáng tạo, giải phóng toàn bộ sức sản xuất, khơi thông mọi nguồn lực để phát triển; các quy định của luật phải mang tính ổn định, có giá trị lâu dài; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền; triệt để cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, điều kiện đầu tư sản xuất, kinh doanh, giảm chi phí tuân thủ, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân và doanh nghiệp.
Nhiều dự án giao thông quan trọng quốc gia có ý nghĩa liên kết vùng, tạo hiệu ứng lan tỏa được đưa vào khai thác.
Theo đó, đã đưa vào khai thác thêm 109 km đường bộ cao tốc, nâng tổng chiều dài đường bộ cao tốc cả nước lên hơn 2.021 km; khởi công tuyến cao tốc Hòa Bình - Mộc Châu; khởi công 2 dự án nối thông đường Hồ Chí Minh; triển khai đợt thi đua cao điểm "500 ngày đêm thi đua hoàn thành 3.000 km đường bộ cao tốc"...; khẩn trương hoàn thiện các thủ tục để khởi công 5 dự án giao thông lớn. Về hàng không, quyết liệt đẩy nhanh tiến độ thi công rút ngắn thời gian hoàn thành, đưa vào sử dụng Cảng Hàng không quốc tế Long Thành, Nhà ga T3 Tân Sơn Nhất... Đặc biệt, dự án 500kV mạch 3 Quảng Trạch - Phố Nối với quy mô gần 1 tỷ USD được khánh thành sau hơn 6 tháng thần tốc thi công, xác lập kỷ lục về thủ tục đầu tư và thời gian thi công ngắn nhất, ghi dấu ấn tinh thần dân tộc và sự đồng lòng của cả hệ thống chính trị.
Xuất nhập khẩu đạt mức kỷ lục, gần800 tỷ USD, trong đó xuất khẩu trên 400 tỷ USD
Tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam năm 2024 đạt kỷ lục mới, lên đến 786,29 tỷ USD, tăng 15,4% so với năm trước, xuất khẩu đạt 405,53 tỷ USD, tăng 14,3%, nhập khẩu đạt 380,76 tỷ USD, tăng 16,7%. Kết quả này đã đưa Việt Nam đứng thứ 17 trong 20 nền kinh tế có quy mô thương mại lớn nhất thế giới.
Trong năm 2024 có 37 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 94,3% tổng kim ngạch xuất khẩu (có 8 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm 69,0%). Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực như điện tử, máy tính và linh kiện; điện thoại và linh kiện; máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác; dệt may; giày dép và gỗ duy trì vị trí dẫn đầu. Điện tử máy tính và linh kiện tiếp tục là nhóm hàng xuất khẩu dẫn đầu về giá trị xuất khẩu, với sự đóng góp lớn của các tập đoàn công nghệ như Samsung, LG, Apple và các công ty sản xuất linh kiện điện tử tại Việt Nam. Giá trị xuất khẩu năm 2024 của nhóm hàng điện tử, máy tính và linh kiện đạt 72,6 tỷ USD, tăng 26,6% so với năm 2023, chiếm 17,9% tổng kim ngạch xuất khẩu. Điện thoại và linh kiện đứng vị trí thứ 2 với kim ngạch đạt 53,9 tỷ USD, tăng 2,9%; máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác đạt 52,3 tỷ USD, tăng 21%; hàng dệt may đạt 37 tỷ USD, tăng 11,2%; giày dép đạt 22,9 tỷ USD, tăng 13%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 16,3 tỷ USD, tăng 20,9%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 15,1 tỷ USD, tăng 6,4%; thủy sản đạt 10 tỷ USD, tăng 11,9%.
Việt Nam nằm trong nhóm 15 nước đang phát triển thu hút FDI lớn nhất thế giới
Năm 2024, dòng vốn FDI tiếp tục đổ mạnh vào Việt Nam, đạt gần 40 tỷ USD, đưa Việt Nam vào top 15 nước đang phát triển thu hút FDI lớn nhất thế giới. Đặctrong cả năm 2024, vốn thực hiện của các dự án đầu tư nước ngoài (FDI) ước đạt khoảng 25,35 tỷ USD, tăng 9,4% so với năm trước đó, đánh dấu mức giải ngân cao nhất từ trước đến nay.Trong xu hướng đa dạng hóa chuỗi cung ứng và diễn biến phức tạp về địa chính trị trên thế giới, Việt Nam đang nổi lên như một điểm đến hấp dẫn cho các nhà đầu tư nước ngoài nhờ nguồn nhân lực chất lượng cao với chi phí cạnh tranh; sự đầu tư và nâng cấp mạnh về cơ sở hạ tầng; cơ chế, chính sách ngày càng thông thoáng, cởi mở; quyết tâm chính trị cao của Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Thủ tướng Chính phủ. Do vậy, năm 2024, đã có 114 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam trong đó Singapore dẫn đầu với tổng vốn đầu tư gần 10,21 tỷ USD, chiếm 26,7% tổng vốn, tăng 31,4% so với năm 2023. Hàn Quốc đứng thứ hai với gần 7,06 tỷ USD, chiếm 18,5%, tăng 37,5%. Tiếp theo là Trung Quốc với 2,84 tỷ USD, chiếm 14,4%; Hồng Kông (Trung Quốc) với 2,17 tỷ USD, chiếm 11,0% tổng vốn đầu tư.
Bên cạnh đó, năm 2024 ghi dấu ấn lớn của Việt Nam trong việc thu hút đầu tư công nghệ cao, chuyển mình từ một quốc gia gia công sang trung tâm thiết kế, nghiên cứu và phát triển (R&D) của các tập đoàn lớn như Apple, Nvidia và Samsung. Apple thông qua đối tác đã đầu tư hơn 16 tỷ USD từ năm 2019, tạo 200.000 việc làm, nay cam kết mở rộng hợp tác, tăng cường mua linh kiện từ Việt Nam, hỗ trợ đổi mới sáng tạo. Nvidia khởi động nhà máy AI đầu tiên, góp phần đưa Việt Nam lên bản đồ công nghệ trí tuệ nhân tạo thế giới. Samsung mở rộng trung tâm R&D tại Hà Nội với kỳ vọng thành "trái tim công nghệ" Đông Nam Á, đưa Việt Nam tiến gần hơn đến mục tiêu trở thành trung tâm công nghệ toàn cầu.
Năm 2025, Ngân Hàng Thế Giới (WB) dự báo nền kinh tế Việt Nam sẽ tăng trưởng ở mức 6,5% nhờ vào chính sách tài khóa linh hoạt và hiệu quả của Chính phủ trong việc kiểm soát lạm phát và thúc đẩy đầu tư công, trong đó các dự án hạ tầng quan trọng như cao tốc Bắc-Nam và sân bay Long Thành dự kiến sẽ là động lực chính cho tăng trưởng. Tương tự, Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF) dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2025 đạt khoảng 6,7% nhờ việc thực thi các các hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam đã ký kết, đặc biệt là EVFTA và CPTPP, giúp mở rộng thị trường xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế thế giới đang có sự chuyển đổi đan xen giữa tự do hoá và bảo hộ, giữa đa phương và song phương, nhất là trong bổi cảnh địa chính trị có những diễn biến khó lường, chiến tranh thương mại đang được thổi bùng bởi Mỹ - một trong những đối tác thương mại hàng đầu của Việt Namthì hơn lúc nào hết, Việt Nam cần chú trọng điều chỉnh chiến lược và chính sách nhằm thích ứng linh hoạt với tình hình mới, đồng thời tích cực, chủ động tham giasâu vào chuỗi giá trị toàn cầu, nâng cao vị thế xuất khẩu, khai thác tốt lợi thế thương mại và các dòng vốn đầu tư nước ngoài cho phát triển kinh tế.
Nguồn: Quỳnh Anh, Văn phòng Ban Chỉ đạo liên ngành Hội nhập quốc tế về kinh tế