Ngày 15-11-2020, Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) chính thức được ký kết với sự tham gia của mười quốc gia thành viên Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và năm nước đối tác(1). Đây không chỉ là một thỏa thuận thương mại tự do đơn thuần mà còn là một thỏa thuận thực sự toàn diện, mang nhiều ý nghĩa quan trọng. Việc RCEP hoàn tất cũng đánh dấu nhiệm kỳ Chủ tịch ASEAN năm 2020 thành công của Việt Nam, tạo đà cho kinh tế Việt Nam hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Tổng quan về Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực
Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) được khởi động vào năm 2012 theo sáng kiến của các nước ASEAN nhằm khuyến khích thương mại giữa 10 quốc gia thành viên ASEAN và 6 đối tác ban đầu là Ô-xtrây-li-a, Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Niu Di-lân và Hàn Quốc. Mục tiêu của RCEP là hướng tới tất cả các bên “cùng có lợi, cùng thắng”. Tuy nhiên, đến tháng 11-2019, việc Ấn Độ xin rút khỏi quá trình đàm phán, đã làm giảm số lượng các quốc gia đàm phán RCEP từ 16 nước xuống còn 15 nước. Đến ngày 15-11-2020, trải qua tám năm với 31 vòng đàm phán, 15 cuộc họp của Ủy ban đàm phán thương mại và 19 vòng đàm phán cấp bộ trưởng, RCEP đã chính thức được các nước ký kết theo hình thức trực tuyến(2).
RCEP dựa trên “kiềng ba chân”, gồm thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ và thương mại điện tử, được cụ thể hóa bằng một văn kiện dài hơn 14.000 trang với 20 chương, cùng với các phụ lục và lịch trình(3). Các nội dung của RCEP bao gồm: 1- Lộ trình cắt giảm thuế quan với thương mại hàng hóa; 2- Thiết lập các quy tắc chất lượng cao hơn cho thương mại dịch vụ, gồm cả các điều khoản tiếp cận thị trường cho các nhà cung ứng dịch vụ trong nội bộ khối; 3- Thiết lập các quy tắc chung cho thương mại điện tử, chính sách cạnh tranh, mua sắm của Chính phủ, thương mại về quyền sở hữu trí tuệ(4); 4- Giảm bớt các hàng rào phi thuế quan đối với thương mại cũng như những tiêu chuẩn kỹ thuật giữa các quốc gia thành viên, nhưng nội dung và mức độ cam kết tương đối phù hợp với pháp luật hiện hành của Việt Nam và các nước ASEAN khác(5); 5- Thiết lập thủ tục cần thiết nhằm cắt giảm chi phí và thời gian cho các doanh nhân khi cho phép họ xuất khẩu hàng hóa sang bất kỳ quốc gia thành viên nào mà không cần đáp ứng các yêu cầu riêng biệt của từng quốc gia; 6- Trong RCEP không có những quy định về lao động hay môi trường như trong Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) hay Hiệp định Khu vực mậu dịch tự do Liên minh châu Âu - Việt Nam (EVFTA).
Khác với CPTPP, RCEP không thiết lập tiêu chuẩn chung về lao động và môi trường, cũng không buộc các nước phải cam kết mở cửa các ngành dịch vụ và các lĩnh vực khác của một quốc gia thành viên vốn được đánh giá là còn hạn chế, chỉ thông qua cắt giảm hàng rào thuế quan và phi thuế quan nhằm xây dựng thị trường thương mại tự do thống nhất gồm 15 nước để bảo đảm đây là một hiệp định thương mại mới, ưu tiên tự do hóa thương mại hơn là tạo nên một cuộc cạnh tranh thương mại. Việc đơn giản hóa và hợp nhất các quy tắc từ nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA) khác nhau, vốn là đặc trưng của RCEP, có lợi cho các doanh nghiệp của các nước ASEAN, bởi vì các doanh nghiệp của ASEAN có thể lựa chọn quyền tiếp cận thị trường theo RCEP hay tiếp tục sử dụng những quy định của các FTA ASEAN+1 độc lập hiện có giữa nước chủ nhà với các nước đối tác(6).
Khi chính thức có hiệu lực, với tổng GDP thực tế đạt khoảng 25.000 tỷ USD, chiếm gần 30% GDP của thế giới(7) - ngang bằng với Hiệp định thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA) và lớn hơn cả Liên minh châu Âu (EU), RCEP sẽ tạo nên một thị trường tiêu dùng lớn với khoảng 30% dân số thế giới, làm tăng GDP của khu vực châu Á - Thái Bình Dương thêm 2,1% và GDP thế giới lên 1,4%, mang lại thêm 209 tỷ USD hằng năm cho doanh thu toàn cầu và 500 tỷ USD cho thương mại thế giới vào năm 2030(8), trong đó sẽ thúc đẩy tăng trưởng GDP của Trung Quốc thêm khoảng 0,55%, Nhật Bản thêm 0,1% và Hàn Quốc thêm 0,5%(9). Đối với các cam kết thuế quan, Việt Nam và các nước đối tác sẽ xóa bỏ thuế quan đối với ít nhất 64% số dòng thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực. Đến cuối lộ trình, nghĩa là sau 15 - 20 năm, Việt Nam sẽ xóa bỏ khoảng 85,6% - 89,6% tổng số dòng thuế đối với các nước đối tác, trong khi các nước đối tác xóa bỏ cho Việt Nam khoảng 90,7% - 92% tổng số dòng thuế.
Nếu đánh giá tác động tổng thể đối với các quốc gia khác nhau, RCEP được xem là mang lại lợi ích lớn nhất cho Trung Quốc, tiếp đến là Nhật Bản và Hàn Quốc, nhưng các nước Đông Nam Á cũng được hưởng những lợi ích nhất định với mức khoảng 19 tỷ USD/năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực cho tới năm 2030, bởi vì các nước Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc đều dành cho ASEAN mức độ mở cửa thị trường cao hơn mức mà các nước này dành cho nhau(10). Chẳng hạn như, Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc dành cho ASEAN tỷ lệ tự do hóa thuế quan lần lượt là 90,4%, 90,7% và 90,5% sau 20 năm và xóa bỏ ngay ở mức tương ứng là 75,6%, 64,1% và 67,9% số dòng thuế khi RCEP có hiệu lực, trong khi Nhật Bản và Hàn Quốc chỉ dành cho Trung Quốc tỷ lệ tự do hóa thuế quan lần lượt là 88% và 86% sau 20 năm (trong đó, chỉ xóa bỏ ngay ở mức tương ứng là 57% và 50,4% số dòng thuế khi RCEP có hiệu lực) và Trung Quốc chỉ dành cho Nhật Bản, Hàn Quốc tỷ lệ tự do hóa thuế quan là 86% sau 20 năm, chỉ xóa bỏ ngay ở mức tương ứng là 25% và 38,6% khi RCEP có hiệu lực(11).
Như vậy, ASEAN sẽ giành được thêm quyền tiếp cận thị trường thương mại hàng hóa khổng lồ ở Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc, vượt xa những gì mà các FTA ASEAN+1 đã đạt được. Bên cạnh đó, tiềm năng hưởng lợi của ASEAN còn rất lớn, nhất là liên quan đến lĩnh vực thương mại điện tử. Theo một báo cáo mới đây của Công ty Tư vấn quản lý Bain & Company (Mỹ) và Công ty Đầu tư Temasek (Xin-ga-po), tổng giá trị thị trường (GMV) của nền kinh tế số (kinh tế in-tơ-nét) ASEAN đang trên đà vượt mốc 300 tỷ USD vào năm 2025(12). Thêm vào đó, trong văn kiện của RCEP vẫn dành riêng một chương cho thương mại điện tử. Đây được coi là điểm khởi đầu cho các cuộc đàm phán trong tương lai về vấn đề này, nhất là tại thời điểm 5 năm sau, khi RCEP được đưa ra đánh giá lại. Hơn nữa, RCEP sẽ tăng tính hiệu quả cho các nền kinh tế Đông Bắc Á và Đông Nam Á khi được kết nối và phối hợp chặt chẽ hơn trong các lĩnh vực, như công nghệ, sản xuất, nông nghiệp và tài nguyên; đồng thời, đem đến nhiều thành công hơn trong việc ràng buộc Trung Quốc vào “cuộc chơi chung”.
Ngay sau khi RCEP được thực thi, ngoài việc áp dụng nguyên tắc cộng gộp nguyên liệu có xuất xứ nội khối, các nước thành viên RCEP sẽ tiếp tục nghiên cứu và thảo luận về tính khả thi của việc cộng gộp toàn phần, được xem là quy tắc xuất xứ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể từng bước tham gia chuỗi cung ứng khu vực (tương tự như quy tắc xuất xứ trong CPTPP). Bên cạnh đó, chứng từ chứng nhận xuất xứ hàng hóa trong RCEP cũng đa dạng hơn so với các FTA ASEAN+1. Vì vậy, các doanh nghiệp có thể áp dụng ba hình thức chứng từ chứng nhận xuất xứ hàng hóa, bao gồm: 1- Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (C/O) được cấp bởi các tổ chức có thẩm quyền; 2- Doanh nghiệp đủ điều kiện được phép tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa; 3- Doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu bất kỳ được phép tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa và chịu trách nhiệm về tính đúng đắn, trung thực của việc chứng nhận đó. Các hình thức chứng nhận xuất xứ đa dạng như vậy sẽ tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc giảm thiểu thời gian xin cấp C/O truyền thống, cắt giảm chi phí giao dịch.
RCEP được các nước đánh giá cao bởi một số nguyên nhân sau: 1- Từ góc độ quan hệ quốc tế, RCEP là một hiệp định thương mại do ASEAN làm chủ đạo, điều này giúp RCEP đạt được “mẫu số chung” về chính trị trong cộng đồng quốc tế; 2- Từ góc độ nội dung, RCEP là một hiệp định khu vực được mở rộng sang các lĩnh vực không được đề cập hoặc vượt ra ngoài những quy định của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), chủ yếu tập trung vào thương mại hàng hóa, dịch vụ và đầu tư có thể thích ứng hiệu quả với trình độ phát triển khác nhau của các quốc gia ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương thay vì nhấn mạnh tới “tiêu chuẩn cao”; 3- RCEP bao trùm các hiệp định thương mại khu vực (RTA) và FTA hiện có ở khu vực, tạo thuận lợi cho việc chỉnh đốn lại mạng lưới sản xuất vốn vừa phụ thuộc cao độ lẫn nhau, vừa rời rạc tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Dự kiến, RCEP sẽ được các nước thành viên phê chuẩn vào trước cuối năm 2021 để chính thức có hiệu lực kể từ ngày 1-1-2022.
Cơ hội đan xen thách thức đối với Việt Nam
Việc ký kết và triển khai thực hiện RCEP được xác định là một trong những hướng ưu tiên trong chiến lược hội nhập quốc tế của Việt Nam. Hiện Việt Nam cũng như các nước ASEAN khác đã tham gia ký kết 4 FTA ASEAN+1 với 5 nước đối tác(13). Bên cạnh đó, Việt Nam cũng ký kết một số FTA riêng với từng nước thành viên của RCEP, như Nhật Bản, Hàn Quốc... Khi RCEP đi vào thực thi, Việt Nam sẽ trở thành một trong những nước đứng đầu thế giới về hội nhập sâu rộng vào cả 4 FTA lớn nhất thế giới là CPTPP, EVFTA, RCEP và FTA Việt Nam - Liên minh Kinh tế Á - Âu (VN - EAEU FTA). RCEP sẽ đưa Việt Nam và các đối tác Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương vào vị trí thuận lợi để giải quyết các vấn đề kinh tế khu vực, nhất là hậu quả do dịch bệnh COVID-19, vốn ảnh hưởng đặc biệt nghiêm trọng đến nền kinh tế khu vực Đông Nam Á.
Việc thực hiện RCEP sẽ tạo nên một khuôn khổ ràng buộc pháp lý trong khu vực về chính sách thương mại, đầu tư, sở hữu trí tuệ, thương mại điện tử, giải quyết tranh chấp..., góp phần xây dựng môi trường thương mại công bằng trong khu vực. Vì vậy, việc Việt Nam chủ động cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo lập môi trường kinh doanh thông thoáng, được đánh giá sẽ đem lại giá trị cho nền kinh tế Việt Nam cao hơn so với các lợi ích mở cửa thị trường trực tiếp của các nước, giúp Việt Nam có cơ hội trở thành một điểm đến đáng tin cậy đối với các nhà đầu tư quốc tế về lâu dài.
RCEP cũng sẽ mở thêm cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam tham gia các chuỗi giá trị và sản xuất mới trong khu vực, đồng thời giúp Việt Nam có thể đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, công nghiệp chế biến, may mặc... vào thị trường các nước thành viên do quy trình xuất, nhập khẩu được đơn giản hóa sẽ giảm thời gian, chi phí cho các doanh nghiệp Việt Nam; tăng tỷ suất lợi nhuận và sức cạnh tranh tại các thị trường trong khối RCEP, góp phần thực hiện chính sách xây dựng nền sản xuất định hướng xuất khẩu của Việt Nam. Nhờ vào việc hài hòa quy tắc xuất xứ nội khối RCEP, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam có thể tăng khả năng đáp ứng điều kiện để hưởng ưu đãi thuế quan, từ đó gia tăng xuất khẩu trong khu vực, nhất là ở các thị trường như Nhật Bản, Hàn Quốc, Ô-xtrây-li-a, Niu Di-lân... Các doanh nghiệp Việt Nam cũng sẽ tiếp cận thuận lợi hơn với nguồn nguyên liệu, phục vụ chuỗi sản xuất các mặt hàng có thế mạnh xuất khẩu do RCEP cho phép các nước thành viên áp dụng nguyên tắc cộng gộp nguyên liệu có xuất xứ trong toàn khối.
Đối với lĩnh vực dịch vụ, với nền tảng thương mại điện tử tốt hơn, môi trường đầu tư, kinh doanh minh bạch, cạnh tranh hơn, các quy trình hải quan trở nên thống nhất và hài hòa, RCEP sẽ giúp Việt Nam giảm chi phí giao dịch, tạo dựng môi trường kinh doanh thân thiện hơn, góp phần tăng cường hợp tác kỹ thuật và vị thế của Việt Nam trong giải quyết tranh chấp về thương mại, đầu tư. Về vấn đề đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), RCEP tạo cơ hội giúp Việt Nam và một số nước ASEAN có thể trở thành trung tâm thu hút FDI bởi vì RCEP được xây dựng dựa trên sự phù hợp về trình độ phát triển kinh tế của tất cả các nước tham gia, nhất là đối với một số nước ASEAN vẫn còn trong tình trạng kinh tế kém phát triển. Cơ cấu kinh tế không tương đồng sẽ tạo điều kiện để các nước có thể hỗ trợ lẫn nhau thông qua những chuỗi cung ứng hàng hóa, giúp doanh nghiệp Việt Nam cũng như doanh nghiệp thuộc các nền kinh tế kém phát triển hơn có thể tham gia vào các thị trường ngách. Hiện tại, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Xin-ga-po, Thái Lan, Ma-lai-xi-a đều đang tăng tốc đầu tư ra nước ngoài để mở rộng chuỗi sản xuất và cung ứng. Trong khi đó, Việt Nam được đánh giá là một điểm đến an toàn và hấp dẫn. Cơ hội tăng tốc thu hút nguồn vốn đầu tư từ các nước thành viên RCEP sẽ lớn hơn, nhất là khi Việt Nam đang nỗ lực xây dựng nhiều cơ chế, chính sách vượt trội để đón đầu dòng vốn đầu tư đang dịch chuyển, tạo điều kiện tiếp cận các thị trường lớn hơn ở khu vực, như Trung Quốc, Nhật Bản. Hơn nữa, các doanh nghiệp Nhật Bản, Hàn Quốc cũng là những doanh nghiệp có thế mạnh trong phát triển, đầu tư vào ngành công nghiệp phụ trợ...
Bên cạnh những mặt thuận lợi, RCEP cũng mang tới những sức ép cạnh tranh đối với hàng hóa, dịch vụ của Việt Nam, nhất là trong bối cảnh các doanh nghiệp Việt Nam còn phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên liệu, phụ liệu nhập khẩu từ bên ngoài. Cam kết trong RCEP cũng buộc nhiều nước trong Khối cắt giảm thuế quan đối với hàng hóa Trung Quốc. Do vậy, các doanh nghiệp Việt Nam không những buộc phải cạnh tranh tại thị trường trong nước với một loạt hàng hóa mới có giá thành thấp hơn từ Trung Quốc, Hàn Quốc và nhiều nước ASEAN mà còn phải cạnh tranh với hàng hóa của Trung Quốc tại thị trường các nước thành viên RCEP. Một số ngành sẽ bị ảnh hưởng bởi việc cắt giảm thuế quan này. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động để thích ứng, nỗ lực chinh phục, biến thách thức thành cơ hội.
Tính đến cuối năm 2019, Việt Nam nhập siêu 33,8 tỷ USD với tỷ lệ tăng trưởng nhập siêu 40% từ thị trường Trung Quốc; nhập siêu 7 tỷ USD với tỷ lệ tăng trưởng nhập siêu 1,3% từ thị trường ASEAN (nhưng xu hướng nhập siêu từ ASEAN được dự báo giảm dần); nhập siêu 27 tỷ USD với tỷ lệ tăng trưởng nhập siêu 10% từ thị trường Hàn Quốc; trong khi đó, cán cân thương mại của Việt Nam với Ô-xtrây-li-a và Nhật Bản cơ bản dao động ở mức cân bằng(14). Nhìn vào các thông số trên, có thể thấy RCEP không phải mang đến toàn cơ hội khi Việt Nam là nước nhập siêu phần lớn từ các quốc gia trong RCEP - nơi mà các nền kinh tế đều định hướng xuất khẩu. Song nếu xét về cơ cấu nhập khẩu thì có thể thấy, Việt Nam nhập siêu nhiều nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, máy móc, thiết bị từ Hàn Quốc và Trung Quốc chủ yếu để sản xuất phục vụ xuất khẩu hướng đến thị trường châu Âu, châu Mỹ. Việc Việt Nam nhập siêu không phải vì các thị trường này có định hướng xuất khẩu sang thị trường Việt Nam mà vì bản chất cơ cấu sản xuất, cơ cấu thương mại hiện nay của nước ta.
Đối với những mảng cam kết khó khăn, như tiêu chuẩn lao động, môi trường và mua sắm chính phủ..., là những mảng cam kết thường chỉ có ở những FTA thế hệ mới, thế nhưng mức độ yêu cầu cam kết của những lĩnh vực này trong RCEP chỉ ở mức khiêm tốn, Việt Nam có thể chấp nhận được và đáp ứng được yêu cầu trong ngắn hạn.
Thách thức lớn nhất đặt ra đối với ngành nông nghiệp Việt Nam là các mặt hàng tương đồng sẽ chịu sức ép cạnh tranh lớn hơn giữa các quốc gia thành viên RCEP, nhất là một số quốc gia có cùng chủng loại hàng nông sản với nước ta. Mặt khác, khi RCEP chính thức có hiệu lực, Việt Nam cũng trở thành thị trường nhập khẩu nông sản lớn từ các nước trong RCEP, nên các doanh nghiệp Việt Nam chắc chắn sẽ chịu sự cạnh tranh khốc liệt ngay trên “sân nhà” trong cuộc cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường trong nước. Đặc biệt là, Trung Quốc với lợi thế hàng hóa phong phú, giá rẻ cũng đặt ra những thách thức không nhỏ đối với các mặt hàng nông nghiệp, thủy sản của Việt Nam. Vì vậy, thế mạnh của các mặt hàng nông nghiệp, thủy sản cũng chính là thách thức cạnh tranh của Việt Nam trong khu vực RCEP này.
Một số đề xuất tham chiếu đối với Việt Nam
Để hỗ trợ cho các doanh nghiệp Việt Nam có thể nắm bắt tối đa cơ hội, vượt qua thách thức từ RCEP, trong thời gian tới, Việt Nam cần cải cách môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia mang lại môi trường kinh doanh minh bạch, ổn định giảm thiểu rủi ro cho doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình kinh doanh; đẩy nhanh tiến độ thành lập quỹ FTA nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong các lĩnh vực chịu tác động mạnh từ các FTA, trong đó có RCEP; triển khai xây dựng đề án, kế hoạch truyền thông về các điều khoản cụ thể của RCEP để các doanh nghiệp Việt Nam có thể tận dụng tốt nhất, nhanh nhất khi Hiệp định chính thức có hiệu lực.
Cùng với việc công khai hóa toàn bộ văn bản của RCEP trên các phương tiện thông tin đại chúng cả bằng tiếng Anh và tiếng Việt, các bộ, ngành cần tổ chức một số hội nghị, hội thảo, chuỗi tập huấn cho các doanh nghiệp để tìm hiểu, nắm rõ về RCEP. Bên cạnh đó, việc các cơ quan thương vụ và các trung tâm xúc tiến thương mại ở nước ngoài đẩy mạnh phối hợp thực hiện đồng bộ, chặt chẽ để giúp đỡ các doanh nghiệp có thể tranh thủ khai thác các thị trường của Việt Nam nói chung và RCEP nói riêng, cũng đóng vai trò hết sức quan trọng.
Ngoài điều kiện cần là các giải pháp đồng bộ từ Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương, thì sự chủ động và tích cực của các doanh nghiệp Việt Nam chính là điều kiện đủ để hiện thực hóa các lợi ích và cơ hội, đồng thời giảm tải những thách thức mà RCEP mang lại. Theo đó, có bốn vấn đề chính mà các doanh nghiệp Việt Nam cần quan tâm. Một là, về xuất khẩu hàng hóa, các doanh nghiệp cần quan tâm đến lộ trình cắt giảm và xóa bỏ thuế quan đối với hàng hóa của Việt Nam và của các nước tham gia RCEP, quy tắc xuất xứ của Hiệp định, các quy định về vệ sinh kiểm dịch, rào cản kỹ thuật. Đây là sự chuẩn bị cần thiết cho các mặt hàng của Việt Nam có khả năng xuất khẩu sang nước khác, các dịch vụ có khả năng vươn ra thị trường thế giới. Hai là, xem xét, nắm rõ việc cam kết mở cửa thị trường trong lĩnh vực dịch vụ và đầu tư, các quy định về thủ tục hải quan và thuận lợi hóa thương mại của các nước khác trong RCEP, từ đó củng cố thị trường trong nước, nâng cao chất lượng hàng hóa, nhận diện thương hiệu chuẩn xác; xây dựng kế hoạch mở cửa thị trường đối với những mặt hàng có lợi thế. Ba là, thay đổi tư duy kinh doanh trong bối cảnh mới, lấy sức ép về cạnh tranh là động lực để đổi mới và phát triển. RCEP sẽ mang lại cơ hội cho doanh nghiệp nào chủ động đáp ứng với những thay đổi về môi trường kinh doanh do quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mang lại thông qua việc xây dựng và điều chỉnh kế hoạch kinh doanh cho giai đoạn trung hạn và dài hạn nhằm thúc đẩy dòng chảy của hàng hóa và dịch vụ vào các thị trường đối tác tiềm năng. Bốn là, chủ động tìm hướng hợp tác với các thị trường đối tác của RCEP để thu hút mạnh mẽ nguồn vốn FDI vào Việt Nam nhằm tận dụng hiệu quả nguồn vốn và việc chuyển giao công nghệ từ các tập đoàn lớn, giúp các doanh nghiệp Việt Nam có thể tham gia sâu hơn nữa vào chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu(15).
Thế giới hiện đang bước vào một giai đoạn mới với những thay đổi to lớn chưa từng có trong 100 năm qua khi dịch bệnh COVID-19 vẫn diễn biến hết sức phức tạp; cạnh tranh thương mại Mỹ - Trung Quốc chưa có dấu hiệu dừng lại; cuộc cách mạng khoa học về trí tuệ nhân tạo (AI) và công nghệ lượng tử phát triển nhanh chóng; sự trỗi dậy của các nền kinh tế mới nổi đã thách thức địa vị của các nền kinh tế phát triển truyền thống, vai trò của các thể chế kinh tế - thương mại đa phương...; trật tự và “luật chơi” kinh tế - thương mại quốc tế cũng dần thay đổi và tái định hình. Trong bối cảnh đó, việc ký kết các FTA nói chung, RCEP nói riêng, có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với Việt Nam khi Việt Nam đang ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu. Cùng với sự chuẩn bị của Việt Nam và nhất là sự phát triển mạnh mẽ của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam trong những năm gần đây, có thể tin rằng, RCEP sẽ tạo ra một thị trường xuất khẩu ổn định lâu dài cho Việt Nam, qua đó góp phần giúp Việt Nam thực hiện thành công chính sách xây dựng nền sản xuất định hướng xuất khẩu./.
Minh Anh, Văn phòng BCĐLNKT