Hội nhập trong nước

Trong phạm vi nội khối, các quốc gia thành viên ASEAN đã ký kết một số điều ước quốc tế, thỏa thuận hợp tác trong lĩnh vực SHTT, tuy nhiên nội dung của các văn bản này chủ yếu là tăng cường hoạt động hợp tác về SHTT giữa các nước thành viên, thúc đẩy phổ biến và chuyển giao công nghệ, vì lợi ích chung của Cộng đồng.

Với tư cách là thành viên ASEAN, Việt Nam cũng tham gia ký kết Hiệp định thương mại hàng hóa, hiệp định thương mại dịch vụ, hiệp định thương mại đầu tư với một số quốc gia khác như Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc, Trung Quốc, Úc và Niu-Di-lân. Tuy nhiên, ngoại trừ FTA ASEAN-Úc-Niu-Di-lân là có chương riêng với các cam kết cụ thể về bảo hộ quyền SHTT, các Hiệp định còn lại đều không có nội dung SHTT hoặc nếu có thì chỉ viện dẫn tới Hiệp định TRIPS của WTO.

1. Hiệp định khung ASEAN về hợp tác SHTT

Đây là điều ước quốc tế đầu tiên về SHTT mà các quốc gia thành viên ASEAN ký kết với nhau, tạo cơ sở pháp lý cho việc hợp tác giữa các quốc gia trong lĩnh vực SHTT. Hiệp định được ký tại Bangkok (Thái Lan) vào ngày 15/12/1995 giữa 7 nước thành viên là Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam.

Hiệp định gồm 8 điều, quy định những vấn đề cơ bản nhất về hợp tác SHTT giữa các quốc gia thành viên. Các thỏa thuận nội khối sẽ được thực hiện phù hợp với mục tiêu, nguyên tắc và chuẩn mực trong các điều ước quốc tế liên quan và Hiệp định TRIPS, tạo thuận lợi cho các nhà sáng tạo, nhà sản xuất và người sử dụng SHTT, góp phần phát triển kinh tế - xã hội.

Nhận thức được rõ ràng SHTT là một nhân tố quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu, bảo hộ quyền SHTT nhằm phát huy tối đa tiềm năng thương mại của sáng tạo, thúc đẩy sự sáng tạo để tạo ra của cải, vật chất cho xã hội, ASEAN đã triển khai nhiều hoạt động để thúc đẩy hợp tác về SHTT nói chung, đẩy mạnh bảo hộ và thực thi quyền SHTT nói riêng. ASEAN đã thành lập Nhóm Công tác về Hợp tác SHTT (AWGIPC) từ năm 1996 với mục tiêu thúc đẩy hợp tác về cải thiện hạ tầng và cơ chế liên quan đến SHTT. Đến nay, AWGIPC đã thực hiện rất nhiều sáng kiến và hoạt động để thúc đẩy sự hợp tác giữa các quốc gia ASEAN trong tạo lập, bảo hộ, khai thác và thực thi quyền SHTT, ví dụ như Cổng thông tin SHTT của ASEAN, Hợp tác thẩm định sáng chế (ASPEC), thúc đẩy việc gia nhập các điều ước quốc tế của Tổ chức SHTT thế giới (WIPO) …

2. Hiệp định Thương mại tự do ASEAN - Ấn Độ

ASEAN và Ấn Độ ký kết Hiệp định khung về Hợp tác kinh tế toàn diện ngày 8/10/2003, có hiệu lực từ ngày 01/7/2004. Trên cơ sở Hiệp định khung, hai bên tiếp tục ký kết các Hiệp định về Hàng hóa (có hiệu lực từ tháng 1/2010), Hiệp định về Dịch vụ (có hiệu lực từ tháng 7/2015) và Hiệp định về Đầu tư (có hiệu lực từ tháng 7/2015) nhằm hình thành Khu vực thương mại tự do ASEAN - Ấn Độ.

Trong Hiệp định khung, quyền SHTT được liệt kê là một trong các lĩnh vực hợp tác kinh tế, thuộc phần các lĩnh vực khác (Điều 6.1.(viii)) chứ không có các điều khoản cụ thể liên quan đến quyền SHTT.

3. Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện ASEAN - Nhật Bản

ASEAN và Nhật Bản đã ký Hiệp định về quan hệ đối tác kinh tế toàn diện giữa ASEAN và Nhật Bản (AJCEP) năm 2008. AJCEP được đánh giá là một Hiệp định thương mại tự do toàn diện trong nhiều lĩnh vực, bao gồm thương mại hàng hóa, dịch vụ, đầu tư và hợp tác kinh tế.

Tương tự như đối với Hiệp định ASEAN-Ấn Độ, SHTT là một nội dung hợp tác được quy định tại Điều 53.c (Các lĩnh vực hợp tác kinh tế) trong Hiệp định này.

4. Hiệp định Thương mại tự do ASEAN - Trung Quốc

ASEAN và Trung Quốc ký Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện (ACFTA) năm 2003, theo đó SHTT chỉ là một nội dung hợp tác giữa hai Bên, được quy định trong Phụ lục 4 (Các hoạt động hợp tác theo Điều 6), cụ thể là “Thiết lập cơ chế hợp tác giữa các cơ quan chính quyền thích hợp của các Bên trong lĩnh vực bảo vệ quyền SHTT”.

Hoạt động hợp tác về SHTT giữa ASEAN và Trung Quốc được quy định chi tiết hơn trong Bản ghi nhớ giữa Chính phủ các nước thành viên ASEAN và Chính phủ Trung Quốc về hợp tác trong lĩnh vực SHTT. Điều 2 của Bản ghi nhớ nêu rõ các hoạt động hợp tác cụ thể về SHTT như (i) thiết lập cơ chế họp định kỳ giữa Lãnh đạo các cơ quan SHTT của các nước tham gia để cập nhật thông tin và trao đổi quan điểm về các vấn đề quốc tế quan trọng trong lĩnh vực SHTT; (ii) phối hợp về các vấn đề liên quan đến bảo hộ SHTT trong quá trình trao đổi thông tin và hợp tác khoa học và công nghệ, kinh tế - thương mại và văn hóa; (iii) trao đổi thông tin và kinh nghiệm liên quan đến thẩm định đơn, kiểm soát chất lượng, đào tạo thẩm định viên và các vấn đề khác; (iv) trao đổi thông tin và hợp tác phát triển tự động hóa và cơ sở dữ liệu SHTT…

Các Bên cũng cam kết, tùy theo pháp luật mỗi quốc gia, sẽ thừa nhận sự đóng góp của nguồn gen, tri thức truyền thống, văn hóa dân gian đối với sự phát triển khoa học, văn hóa và kinh tế mỗi quốc gia, thúc đẩy hợp tác và trao đổi thông tin và kinh nghiệm về việc thiết lập và hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo hộ nguồn gen, tri thức truyền thống và văn hóa dân gian.

Nhìn chung, các nội dung của Bản ghi nhớ mang tính chất hợp tác, không ràng buộc các Bên ký kết, tuy nhiên, các Bên được khuyến khích nỗ lực hết sức để thúc đẩy hợp tác và đạt được các mục tiêu đề ra.

5. Hiệp định Thương mại tự do ASEAN - Hàn Quốc

Trong hoạt động thương mại, ASEAN và Hàn Quốc đã ký một loạt điều ước quốc tế với nhau, trong đó có Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện (2005), Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN - Hàn Quốc (có hiệu lực từ tháng 6/2007), Hiệp định Thương mại dịch vụ ASEAN - Hàn Quốc (có hiệu lực từ tháng 5/2009), Hiệp định Đầu tư ASEAN - Hàn Quốc (có hiệu lực từ tháng 6/2009), đây là cơ sở pháp lý cho việc hình thành khu vực thương mại tự do ASEAN - Hàn Quốc.

Tuy nhiên, SHTT không được quy định chi tiết trong các điều ước quốc tế này: Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN - Hàn Quốc chỉ coi SHTT là một lĩnh vực mà các Bên sẽ “trên cơ sở cùng lợi ích, thực hiện và tìm hiểu các dự án hợp tác” (Điều 3.1); Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN - Hàn Quốc chỉ viện dẫn đến SHTT như là một nguyên tắc chung của WTO mà các nước phải tuân thủ: “… các Bên nhất trí và khẳng định lại cam kết tuân thủ các quy định tại các Phụ lục 1A và 1C của Hiệp định WTO, như được liệt kê trong Phụ lục 4, bao gồm, trong số nhiều quy định khác nhau, các biện pháp phi thuế, hàng rào kỹ thuật cản trở thương mại (sau đây được đề cập đến như là "TBT"), các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch (sau đây được đề cập đến như là "SPS"), trợ cấp và các biện pháp chống trợ cấp, các biện pháp chống bán phá giá và quyền sở hữu trí tuệ” (Điều 7).  Các nước thành viên ASEAN chưa phải là thành viên WTO sẽ tuân thủ các quy định của WTO theo các cam kết gia nhập của họ.

6. Hiệp định Thương mại tự do ASEAN – Úc – Niu-Di-lân

Hiệp định Khu vực thương mại tự do ASEAN- Úc- Niu-Di-lân (AANZFTA) được ký kết ngày 27/02/2009 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2010. Đây là thỏa thuận thương mại toàn diện nhất mà ASEAN tham gia từ trước đến nay, bao gồm rất nhiều cam kết về hàng hóa và dịch vụ (gồm cả dịch vụ tài chính và viễn thông), đầu tư, thương mại điện tử, di chuyển thể nhân, SHTT, chính sách cạnh tranh và hợp tác kinh tế.

Cam kết về SHTT trong Hiệp định này được cho là tương đối toàn diện và cao so với các cam kết trong các FTA khác mà ASEAN đã ký.

6.1. Các vấn đề chung

Về mục tiêu, các cam kết về bảo hộ SHTT theo Hiệp định được đặt ra với tinh thần là nhằm giảm trở ngại đối với thương mại và đầu tư, tuy nhiên có tính đến sự khác biệt về trình độ phát triển kinh tế, năng lực và sự khác biệt về hệ thống pháp luật giữa các nước; và sự cần thiết phải duy trì sự cân bằng giữa quyền của chủ SHTT và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đối tượng được bảo hộ SHTT.

Về phạm vi nghĩa vụ, Chương SHTT của AANZFTA tương tự như Hiệp định TRIPS/WTO: quyền SHTT bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan; quyền đối với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng công nghiệp, sáng chế, và thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn; quyền đối với giống cây trồng và quyền đối với thông tin bí mật.

Nguyên tắc đối xử quốc gia: Nguyên tắc này được quy định tại Điều 4 của Chương SHTT. Theo Điều này, ngoài việc tuân thủ các nghĩa vụ cam kết trong Hiệp định TRIPS, mỗi Bên phải dành sự bảo hộ SHTT phù hợp với chuẩn mực tối thiểu của mà AANZFTA đặt ra cho tổ chức, cá nhân của các Bên khác trong AANZFTA, và không kém mức dành cho tổ chức, cá nhân của mình (nguyên tắc đối xử như công dân nước mình) trừ một số trường hợp ngoại lệ được đặt ra theo Hiệp định TRIPS và các điều ước quốc tế do WIPO quản lý.

Tuy nhiên, các nước Thành viên có thể sử dụng các ngoại lệ này liên quan đến các thủ tục xét xử và hành chính, kể cả việc yêu cầu công dân của nước thành viên khác chỉ định địa chỉ dịch vụ hoặc bổ nhiệm đại diện trong lãnh thổ tài phán của mình, nếu những ngoại lệ đó là cần thiết để bảo đảm thi hành đúng các luật và quy định không trái với các quy định của Hiệp định này và nếu cách tiến hành các hoạt động đó không là một sự hạn chế trá hình hoạt động thương mại. Điều này có nghĩa là, các nước có thể yêu cầu tổ chức, cá nhân của các nước khác phải sử dụng đại diện sở hữu công nghiệp khi yêu cầu xác lập và thực thi quyền sở hữu công nghiệp.

Nghĩa vụ minh bạch: Theo Điều 10 Chương SHTT của Hiệp định, ngoài nghĩa vụ công bố những quy định áp dụng chung liên quan đến sự sẵn có, phạm vi, xác lập, thực thi và chống lạm dụng quyền SHTT bằng ngôn ngữ quốc gia hoặc bằng tiếng Anh (tương tự như nghĩa vụ của các thành viên WTO), các Bên tham gia Hiệp định này còn cam kết nỗ lực công bố các quyết định tư pháp có hiệu lực áp dụng chung và các quy định hành chính liên quan đến các vấn đề nêu trên, ít nhất là bằng ngôn ngữ quốc gia hoặc bằng tiếng Anh.

Các quốc gia trong AANZFTA cũng cam kết nỗ lực cung cấp các thông tin trên và cơ sở dữ liệu về đơn nhãn hiệu và nhãn hiệu đã được đăng ký trên mạng internet. Bằng việc thực hiện cam kết này các thành viên của AANZFTA không những tạo thuận lợi cho việc tìm kiếm thông tin về quy định pháp luật liên quan của các chủ thể quyền mà còn giúp cho việc tra cứu khả năng được bảo hộ của các nhãn hiệu dự kiến đăng ký cũng như tình trạng pháp lý của các nhãn hiệu.

Thời gian chuyển tiếp, với tinh thần thừa nhận sự khác biệt về trình độ phát triển kinh tế - xã hội, các nước AANZFTA vẫn thừa nhận rằng các cam kết trong Chương SHTT của Hiệp định này không làm ảnh hưởng đến thời gian chuyển tiếp áp dụng cho việc thi hành các nghĩa vụ mà Hiệp định đã dành cho hoặc Hội đồng TRIPS sẽ dành cho các thành viên WTO theo quy định của Điều 4 Hiệp định WTO. Điều này có nghĩa là các nước chậm phát triển trong khối thương mại tự do AANZFTA (bao gồm Cam-pu-chia, Lào, Mi-an-ma) không phải thi hành nghĩa vụ trong Hiệp định này liên quan đến bảo hộ SHTT nói chung (trừ nghĩa vụ về đối xử quốc gia và đối xử tối huệ quốc) cho đến năm 2021 và nghĩa vụ bảo hộ sáng chế đối với dược phẩm cho đến năm 2033).

Về Ủy ban SHTT, để bảo đảm thi hành hiệu quả các cam kết trong Hiệp định, các nước AANZFTA đã nhất trí  thành lập Ủy ban về SHTT, bao gồm đại diện của các nước nhằm theo dõi việc thi hành và quản trị Chương SHTT của Hiệp định. Hoạt động của Ủy ban do các Bên quyết định và tùy thuộc vào nhu cầu xuất phát từ việc thi hành Hiệp định. Cơ chế hoạt động của Ủy ban này có thể thay đổi để thúc đẩy đối thoại giữa các Bên về SHTT, đặc biệt là các vấn đề theo nhu cầu của các chủ thể trong xã hội. Các Bên phải báo cáo Ủy ban về tình hình thi hành cam kết tại Điều 5 về Quyền tác giả và các thay đổi liên quan đến việc gia nhập các điều ước quốc tế nêu tại Điều 9.7 của Chương SHTT.

6.2. Bảo hộ các đối tượng của quyền SHTT

Cam kết liên quan đến mức độ bảo hộ và phạm vi quyền SHTT cụ thể trong Hiệp định này cao hơn nghĩa vụ theo Hiệp định TRIPS ở một số khía cạnh, nhưng đa số ở dạng nghĩa vụ phải nỗ lực, thay vì buộc phải thực hiện (còn gọi là nghĩa vụ mềm).

a) Quyền tác giả và quyền liên quan

Cam kết về bảo hộ và thực thi quyền đối với hai nhóm quyền này trong Hiệp định (Điều 5) có một số điểm tương đối cao so với Hiệp định TRIPS.

Đối với quyền tác giả, các Bên trong AANZFTA có nghĩa vụ dành cho các tác giả độc quyền cho phép việc truyền đạt tác phẩm của mình tới công chúng bằng các phương tiện hữu tuyến và vô tuyến. Độc quyền này của tác giả đã được quy định ở các Điều 11, 11bis, 11ter, và 14 của Công ước Berne và được khẳng định lại theo Hiệp định TRIPS. Tuy nhiên, các quy định của Hiệp định TRIPS và Công ước Berne không rõ ràng và tổng quát bằng lời văn trong AANZFTA. Lời văn trong AANZFTA về cơ bản đã được chuyển tải từ nội dung của Điều 8 của WCT.

Tương tự, đối với quyền liên quan, lời văn về việc các Bên dành cho nhà sản xuất bản ghi âm độc quyền cho phép truyền đạt tới công chúng bản ghi âm bằng các phương tiện hữu tuyến và vô tuyến cũng được lấy chủ yếu từ WPPT (Điều 14). Tuy nhiên, nghĩa vụ ở đây không mang tính bắt buộc như đối với quyền tác giả, mà chỉ ở mức nỗ lực thực hiện.

Đối với các biện pháp công nghệ bảo vệ quyền, Hiệp định quy định các Bên nỗ lực dành sự bảo hộ đầy đủ và quy định biện pháp pháp lý hiệu quả cho hành vi phá các biện pháp công nghệ bảo vệ quyền được chủ sở hữu quyền tác giả sử dụng để thực hiện quyền của mình và hạn chế các hành vi được thực hiện đối với tác phẩm mà không có sự đồng ý của chủ sở hữu hoặc không được pháp luật cho phép. Nghĩa vụ bảo hộ cho biện pháp công nghệ bảo vệ quyền  được lấy từ nội dung của WCT (Điều 11), cao hơn so với quy định của Hiệp định TRIPS. Tuy nhiên, nghĩa vụ này cũng mới dừng ở dạng nghĩa vụ mềm, các Bên cùng nhau hợp tác để nỗ lực thực hiện nếu có thể.

Ngoài ra, các Bên còn phải thúc đẩy việc thành lập các cơ quan phù hợp để quản lý tập thể quyền tác giả và khuyến khích các cơ quan đó hoạt động theo cách thức hiệu quả, công khai minh bạch và có trách nhiệm đối với thành viên. Nghĩa vụ này nằm ngoài quy định của Hiệp định TRIPS, được đặt ra nhằm tạo thuận lợi cho việc khai thác thương mại quyền tác giả. Trên thực tế các tác giả khó có thể theo dõi việc khai thác tác phẩm của mình ở các nước mà tác phẩm của mình được bảo hộ, do đó cần có tổ chức giúp các tác giả quản lý quyền.

b) Quyền đối với nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý

Về nhãn hiệu, các Bên phải duy trì hệ thống phân loại nhãn hiệu phù hợp với Hiệp định Nice về phân loại quốc tế hàng hóa và dịch vụ trong đăng ký nhãn hiệu. Cam kết này nhằm hài hòa hóa cách phân loại hàng hóa và dịch vụ trong đăng ký nhãn hiệu ở các nước, tạo thuận lợi cho người nộp đơn.

Đồng thời, các nước trong AANZFTA cần phải cấp quyền có chất lượng đối với nhãn hiệu thông qua việc tiến hành thẩm định nội dung và hình thức và thủ tục phản đối và hủy bỏ. Điều này có nghĩa là các nước phải thiết lập quy trình xử lý đơn đăng ký nhãn hiệu trong đó có thẩm định nội dung và hình thức đơn đăng ký. Quy trình đó cũng cần bao gồm thủ tục cho phép người thứ ba bất kỳ hoặc người có quyền và lợi ích liên quan được phản đối hoặc hủy đăng ký nhãn hiệu.

Trong mối quan hệ giữa nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý, các nước cam kết bảo hộ nhãn hiệu có trước chỉ dẫn địa lý phù hợp với pháp luật quốc gia và Hiệp định TRIPS. Điều này xuất phát chủ yếu từ nhu cầu cam kết của Úc và Niu-Di-lân. Do yếu tố lịch sử, hai nước này có nhiều nhãn hiệu trùng/tương tự với chỉ dẫn địa lý của EU nên muốn bảo đảm sự bảo hộ cho các nhãn hiệu của mình đã được đăng ký tại thị trường ASEAN ngay cả khi có các nước trong EU nộp đơn đăng ký chỉ dẫn địa lý tại thị trường này. Tuy nhiên, điều này không yêu cầu các nước phải từ chối hoàn toàn các chỉ dẫn địa lý đăng ký sau xung đột với nhãn hiệu có trước. Hay nói cách khác, khi việc sử dụng chỉ dẫn địa lý đăng ký sau không làm cho người tiêu dùng nhầm lẫn với nhãn hiệu có trước thì chỉ dẫn địa lý đăng ký sau vẫn có khả năng được bảo hộ.

Tại Điều 7 Chương SHTT Hiệp định này, các nước cũng đồng thời thừa nhận chỉ dẫn địa lý có thể được bảo hộ thông qua hệ thống nhãn hiệu. Để hiểu rõ hơn về điều này, chúng ta cần tìm hiểu quy định của Hiệp định TRIPS về bảo hộ chỉ dẫn địa lý. Theo quy định của Điều 22 Hiệp định TRIPS, các Thành viên phải quy định những biện pháp pháp lý để các bên liên quan ngăn ngừa: (i) việc sử dụng bất kỳ phương tiện nào để gọi tên hoặc giới thiệu hàng hoá nhằm chỉ dẫn hoặc gợi ý rằng hàng hoá đó bắt nguồn từ một khu vực địa lý khác với xuất xứ thực, với cách thức lừa dối công chúng về xuất xứ địa lý của hàng hoá; và (ii) bất kỳ hành vi sử dụng nào cấu thành một hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo ý nghĩa của Điều 10bis Công ước Paris (1967).

Điều này có nghĩa là các nước được tự do lựa chọn cách thức bảo hộ chỉ dẫn địa lý phù hợp với mình, miễn là phù hợp với các quy định tại Điều 22 TRIPS. Vì thế, trên thế giới có nhiều cách thức bảo hộ chỉ dẫn địa lý khác nhau. Một số nước, tiêu biểu là các nước thuộc Châu Âu, bảo hộ chỉ dẫn địa lý theo hệ thống riêng, tách biệt với các đối tượng khác của quyền SHTT; một số nước bảo hộ chỉ dẫn địa lý theo hệ thống nhãn hiệu (Úc, Hoa Kỳ) và một số ít các nước lại bảo hộ chỉ dẫn địa lý theo luật về chỉ dẫn sai lệch (Niu-Di-lân).

c) Quyền đối với nguồn gen, tri thức truyền thống và văn hóa dân gian

Vấn đề bảo hộ nguồn gen, tri thức truyền thống và văn hóa dân gian là vấn đề tương đối mới. Hiệp định TRIPS mới chỉ đặt vấn đề mối liên hệ giữa Hiệp định TRIPS và Công ước đa dạng sinh học. Trong nhiều năm qua, các thành viên của WIPO đã thảo luận về việc bảo hộ nguồn gen, tri thức truyền thống và văn hóa dân gian nhưng đi vào bế tắc. Lý do của sự bế tắc trong đàm phán là ngoài việc chưa có cơ sở lý luận vững chắc của việc bảo hộ theo hệ thống SHTT, còn là sự xung đột về lợi ích trong bảo hộ các đối tượng này.

Sự xung đột lợi ích bắt nguồn từ việc các nước phát triển, với nền công nghệ hiện đại, khai thác các nguồn gen, tri thức truyền thống để tạo ra các sáng chế. Sau đó, chính việc bảo hộ sáng chế đối với kết quả sáng tạo trên cơ sở nghiên cứu về nguồn gen và tri thức truyền thống này lại quay trở lại hạn chế quyền sử dụng nguồn gen và các tri thức kèm theo đó của người dân bản địa trong khi chưa có sự chia sẻ lợi ích từ sáng chế dựa trên nguồn gen và tri thức truyền thống một cách hợp lý. Vấn đề tương tự cũng nảy sinh đối với văn hóa dân gian.

Chính vì vậy, trong khuôn khổ này các nước đã thừa nhận quyền của một quốc gia được quy định những biện pháp để bảo vệ nguồn gen, tri thức truyền thống và văn hóa dân gian. Tuy nhiên, các biện pháp này cần phải phù hợp với các cam kết quốc tế liên quan.

6.3. Thực thi quyền

Nghĩa vụ thực thi quyền SHTT trong AANZFTA được quy định dưới dạng đảm bảo thực hiện theo Hiệp định TRIPS.

6.4. Hợp tác thi hành Hiệp định

Trên cơ sở thừa nhận sự khác biệt đáng kể về năng lực giữa các nước tham gia AANZFTA và việc thi hành các nghĩa vụ theo Hiệp định này có thể bị ảnh hưởng bởi các hạn chế về năng lực, các nước sẽ cố gắng cung cấp sự hợp tác để giúp đỡ một nước khác thi hành nghĩa vụ theo Chương này khi được yêu cầu. Các hỗ trợ sẽ tập trung vào hỗ trợ xây dựng khuôn khổ để tạo lập, bảo hộ, thực thi, sử dụng và tạo ra quyền SHTT với mục đích phát triển hệ thống SHTT theo hướng thúc đẩy đổi mới tại nước yêu cầu hỗ trợ.

Các nước AANZFTA cũng nhất trí thúc đẩy đối thoại về các vấn đề SHTT thông qua việc chỉ định đầu mối của cơ quan quản lý, kể cả đầu mối của các cơ quan thực thi quyền SHTT tại biên giới; khuyến khích trao đổi giữa các chuyên gia về SHTT nhằm tăng cường sự hiểu biết về hệ thống SHTT của nhau; trao đổi thông tin về xâm phạm quyền SHTT phù hợp với quy định của pháp luật quốc gia mỗi nước.

Đồng thời các nước AANZFTA cũng sẽ nỗ lực hợp tác trong việc (i) tăng cường hiệu quả và minh bạch trong hệ thống quản lý và đăng ký quyền SHTT, bao gồm cả việc trao đổi thông tin liên quan đến sự phát triển của hệ thống và xây dựng cơ sở dữ liệu về các quyền đã được đăng ký mà công chúng có thể tiếp cận được; (ii) thúc đẩy giáo dục và nâng cao nhận thức về lợi ích của việc bảo hộ và thực thi hiệu quả quyền SHTT.

Hợp tác trong thực hiện biện pháp biên giới được nhấn mạnh do vai trò của biện pháp này có tác dụng nâng cao đáng kể hiệu quả thực thi quyền. Các nước AANZFTA là thành viên của WTO đã cam kết hợp tác thi hành hiệu quả những yêu cầu liên quan đến biện pháp biên giới theo quy định từ Điều 51 đến 60 của Hiệp định TRIPS.

Một trong những mục tiêu đặt ra của việc đưa các cam kết SHTT vào các FTA là thuận lợi hóa điều kiện kinh doanh cho các nhà đầu tư và các nhà kinh doanh thương mại. Trong SHTT, việc thuận lợi hóa điều kiện kinh doanh đó bao gồm cả việc áp dụng những chuẩn mực chung trong bảo hộ và thực thi quyền.

Nhận thức được điều này, các nước AANZFTA khuyến khích việc gia nhập các điều ước quốc tế và do đó thống nhất rằng khi một Bên trong Hiệp định có ý định gia nhập một trong các điều ước quốc tế được liệt kê trong Hiệp định (Điều 9.7), có thể tìm kiếm sự hợp tác từ thành viên khác để hỗ trợ sự gia nhập và thi hành các điều ước quốc tế đó. 

Trịnh Minh Anh, Văn phòng BCĐLNKT