Đại dịch COVID-19 gây ảnh hưởng sâu sắc đến các phân khúc của chuỗi cung ứng nông sản toàn cầu. Cùng với những khó khăn về thiên tai, dịch bệnh, một lần nữa, đại dịch COVID-19 lại là phép thử đối với nền nông nghiệp Việt Nam. Nông nghiệp Việt Nam không chỉ cần bảo đảm an ninh lương thực, dinh dưỡng cho người tiêu dùng và sinh kế của người dân trong nước, mà còn phải tiếp tục hội nhập mạnh mẽ vào chuỗi cung ứng toàn cầu, đặc biệt là cơ hội mới do các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới đem lại.
Tác động của đại dịch COVID-19 đến chuỗi cung ứng nông nghiệp toàn cầu
Đại dịch COVID-19 xảy ra từ cuối tháng 12-2019 đã lan ra 220 quốc gia và vùng lãnh thổ, tác động gần như đến toàn bộ các nền kinh tế thế giới và theo các cách thức khác nhau. Ngoài những thiệt hại về người và ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe con người trên toàn thế giới, dịch bệnh còn gia tăng gánh nặng cho các nước do phí tổn của việc cách ly xã hội và ngăn chặn lây lan. Để đối phó với đại dịch, chính phủ các nước đã ban bố lệnh phong tỏa trên diện rộng, thực hiện giãn cách xã hội, đóng cửa trường học, công sở, các địa điểm kinh doanh không thiết yếu, hạn chế và tăng cường kiểm soát chặt chẽ việc di chuyển con người, hàng hóa, phương tiện, nhanh chóng xúc tiến tiêm vắc xin diện rộng để chủ động tạo miễn dịch cộng đồng.
Ngày càng nhiều doanh nghiệp sản xuất phải tạm thời đóng cửa. Những doanh nghiệp còn hoạt động thì gặp phải hạn chế trong chuỗi cung ứng nguyên liệu và sản phẩm trung gian. Thêm vào đó, nhu cầu tiêu dùng giảm còn làm trầm trọng thêm những thách thức mà các nhà sản xuất phải đối mặt. Các nhà máy trên khắp nước Mỹ, châu Âu và châu Á đều báo cáo sản lượng sụt giảm trong thời gian qua. Theo Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), thương mại toàn cầu vốn đã chững lại trong năm 2019, tiếp tục đi xuống trong năm 2020 với mức giảm trên hai con số. Những tác động của đại dịch đối với chuỗi cung ứng nông nghiệp toàn cầu là rất lớn.
Thứ nhất, dưới tác động của đại dịch COVID-19, các biện pháp phong tỏa, cách ly và giãn cách xã hội đã làm giảm nguồn cung lao động, vật tư nông nghiệp đầu vào gây ảnh hưởng không nhỏ đến nguồn cung nông sản và kèm theo đó là vấn đề bảo đảm an ninh lương thực toàn cầu và sinh kế của người dân. Tại Ấn Độ, nông dân được yêu cầu tạm dừng các hoạt động thu hoạch nông sản cho đến khi lệnh phong tỏa hết hiệu lực và các chợ nông sản được mở cửa trở lại. Các biện pháp giãn cách xã hội làm cho công tác luân chuyển thực phẩm và hoạt động cung ứng vật tư nông nghiệp đầu vào phục vụ sản xuất giữa các vùng trở nên khó khăn.
Đại dịch và các biện pháp nhằm kiểm soát dịch bệnh làm gia tăng tình trạng khan hiếm lương thực, thực phẩm, tăng nguy cơ mất an ninh lương thực, an ninh dinh dưỡng. Theo tổ chức Oxfam, đại dịch COVID-19 làm tăng số người bị mất an ninh lương thực khẩn cấp lên tới 270 triệu người trong năm 2020, tăng 82% so với năm 2019. Điều này, có nghĩa là từ 6.000 người đến 12.000 người có thể chết mỗi ngày vì nạn đói liên quan đến các tác động xã hội và kinh tế của đại dịch trong năm 2020. Trong đó, các quốc gia châu Phi sẽ bị ảnh hưởng nhiều nhất vì mất an ninh lương thực do COVID-19.
Thứ hai, các biện pháp phòng, chống sự lây lan đại dịch COVID-19 cũng đang ảnh hưởng đến khâu sau sản xuất trong chuỗi cung ứng nông nghiệp toàn cầu. Mặc dù nhu cầu với nông sản có xu hướng tăng lên nhưng các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu, trang trại, người sản xuất nông sản lại gặp khó khăn trong việc tiếp cận thị trường do những thách thức từ việc đóng cửa biên giới, phong tỏa cảng biển, tăng cường kiểm dịch đối với hàng hóa, phương tiện vận chuyển và người tham gia vận chuyển. Thêm vào đó, việc thiếu hụt nguồn nhân lực trong các khâu sau thu hoạch, bao gồm cả sơ chế, bảo quản, chế biến và phân phối hàng hóa cùng những thủ tục kéo dài vì phải tuân thủ các quy định chặt chẽ của kiểm soát dịch bệnh đã làm gia tăng chi phí, đặc biệt là trong các hoạt động logistics (lưu trữ, kho bãi, luân chuyển hàng hóa, thủ tục hải quan…).
Thứ ba, bên cạnh thị trường xuất khẩu gián đoạn, đại dịch COVID-19 có thể làm suy giảm nhu cầu và thay đổi xu hướng tiêu dùng nông sản của người dân. Đại dịch COVID-19 làm cho nhiều doanh nghiệp đóng cửa, tạm dừng hoạt động, làm gia tăng tình trạng lao động thiếu và mất việc làm, suy giảm thu nhập. Theo báo cáo của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), đại dịch COVID-19 đã gây thiệt hại cho thị trường lao động lên đến 400 triệu việc làm toàn thời gian. Tổng thiệt hại thu nhập của người lao động do COVID-19 khoảng từ 860 tỷ đến 3.440 tỷ USD. Sụt giảm về thu nhập cũng dẫn đến sụt giảm chi tiêu cho hàng hóa, dịch vụ, thay vào đó, người tiêu dùng có xu hướng gửi tiết kiệm nhiều hơn(1).
Kèm theo đó, xu hướng tiêu dùng lương thực, thực phẩm cũng thay đổi trong đại dịch. Theo kết quả khảo sát người tiêu dùng Mỹ do công ty nghiên cứu thị trường PWC thực hiện về định hình lại hành vi người tiêu dùng trong dịch COVID-19 cho thấy, người tiêu dùng có xu hướng ưu tiên sử dụng những sản phẩm thuộc nhóm ngành hàng thực phẩm tiện lợi và gia vị, như các sản phẩm ăn liền, đồ hộp, mì gói (chiếm 27%); sản phẩm chăm sóc nhà cửa (chiếm 25%); sản phẩm đông lạnh (chiếm 25%); thực phẩm thiết yếu, rau quả tươi, sữa, các chế phẩm từ sữa (chiếm 12%),... Đồng thời, giảm tiêu dùng các loại đồ uống có cồn và có sự e dè với những sản phẩm nông sản tươi như thịt tươi, rau tươi và hải sản trong thời gian diễn ra dịch bệnh. Nhiều người tiêu dùng cũng dần chuyển sang mua bán online, mua hàng chế biến sẵn.
Chuỗi cung ứng nông nghiệp Việt Nam trong đại dịch COVID-19
Việt Nam là nước có năng lực cung mạnh đối với các sản phẩm nông nghiệp. Vì vậy, nông nghiệp Việt Nam phụ thuộc khá lớn vào thị trường xuất khẩu (khoảng 50% sản lượng các sản phẩm nông nghiệp được tiêu thụ thông qua xuất khẩu), đặc biệt là thị trường Trung Quốc, chiếm tới gần 1/4 tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản Việt Nam.
Thời gian qua, ngành nông nghiệp Việt Nam chịu tác động tiêu cực đa chiều từ diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19 đến các khó khăn khác, như hạn hán, xâm nhập mặn xảy ra ở cả 3 miền, thời tiết bất thường, thiên tai (dông lốc, mưa đá), dịch bệnh (đặc biệt là dịch tả lợn châu Phi). Tuy nhiên, nông nghiệp vẫn duy trì tăng trưởng dương, bảo đảm nguồn cung lương thực, thực phẩm ổn định, làm nền tảng cho ổn định chính trị - xã hội trong đại dịch COVID-19. Tăng trưởng GDP ngành nông, lâm, thủy sản năm 2020 đạt 2,68% (nông nghiệp tăng 2,55%; lâm nghiệp tăng 2,82%; thủy sản tăng 3,08%), tăng 0,67 điểm phần trăm so với tốc độ tăng GDP ngành năm 2019. Sang quý I-2021, ngành nông nghiệp tăng tốc, GDP tăng trưởng cao so với cùng kỳ năm trước, đạt 3,16%. Kết quả này nhờ hệ thống các giải pháp khá đồng bộ và quyết liệt của Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương, như chuyển đổi mùa vụ phù hợp; theo dõi chặt chẽ tình hình cung - cầu trong nước; tổ chức kết nối sản xuất - tiêu thụ nông sản ở thị trường cả trong và ngoài nước; tăng cường mở cửa thị trường và tích cực xử lý các rào cản thương mại, kỹ thuật trong xuất khẩu nông, lâm, thủy sản...
Đại dịch COVID-19 gây ảnh hưởng đến hàng loạt các thị trường xuất khẩu lớn của nước ta; nhiều quốc gia đóng cửa biên giới, hạn chế nhập khẩu, làm cho xuất khẩu nông sản năm 2020 suy giảm nhẹ, đạt 18,5 tỷ USD (giảm 0,8% so với năm 2019). Xuất khẩu thủy sản đạt 8,4 tỷ USD (giảm 0.9% so với năm 2019). Tuy nhiên nhờ xuất khẩu lâm sản và đồ gỗ tăng mạnh (đạt trên 13,1 tỷ USD, tăng 13,4% so với năm 2019) nên tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản năm 2020 vẫn tăng so vơi năm 2019 (đạt 41,2 tỷ USD, tăng 2,6% so với năm 2019) (2).
Nét tích cực trong bối cảnh đại dịch là việc chuyển dịch thị trường xuất khẩu nông, lâm, thủy sản theo hai hướng: 1- Xuất khẩu giảm ở thị trường Trung Quốc, nhưng tăng trưởng ở thị trường Mỹ và Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN), ổn định hoặc suy giảm nhẹ ở các thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc; 2- Tăng trưởng tích cực trong tiêu thụ nội địa đối với hàng nông, lâm, thủy sản nhờ các biện pháp kết nối cung - cầu quyết liệt của Chính phủ và các địa phương.
Thương mại mậu biên giảm mạnh do Trung Quốc đã quyết định kéo dài thời gian đóng cửa các chợ biên giới và tiếp tục tạm dừng hoạt động trao đổi hàng hóa cư dân biên giới. Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng nông sản sang Trung Quốc giảm: Rau, quả đạt 1,84 tỷ USD, giảm 25,7%; thủy sản đạt 1,37 tỷ USD, giảm 3,3% so với cùng kỳ năm 2019.
Bên cạnh đó, số lượng đơn hàng giảm cùng với giảm giá(3) khiến cho giá trị xuất khẩu của một số mặt hàng xuất khẩu chiến lược giảm đáng kể so với năm 2019. Các mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch giảm mạnh gồm: cà-phê đạt 2,71 tỷ USD (giảm 4,2%), điều đạt 3,19 tỷ USD (giảm 3%); chè đạt 220 triệu USD (giảm 6,9%); tiêu đạt 670 triệu USD (giảm 6,8%); rau quả đạt 3,26 tỷ USD (giảm 13%); cá tra đạt 1,49 tỷ USD (giảm 25,5%); tôm sú đạt 575 triệu USD (giảm 16,3%). Đại dịch COVID-19 không chỉ gây ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu mà còn làm đứt đoạn các chuỗi cung ứng nông nghiệp, đặc biệt những ngành phải nhập khẩu đầu vào nhiều . Năm 2020, nhập khẩu vật tư nông nghiệp, như thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu giảm 10,6%; phân bón giảm 9,9%; thuốc trừ sâu và nguyên liệu giảm 25,6%. Nhập khẩu cây, con giống từ Trung Quốc, Mỹ, Liên minh châu Âu (EU) và nhiều nơi khác gặp khó khăn(5). Nguồn cung thiếu hụt đã làm tăng giá nhiều loại thức ăn chăn nuôi trong nước.
Do tác động của các lệnh phong tỏa, hạn chế đi lại - giao thương, hoạt động logistics trong chuỗi giá trị nông nghiệp gặp nhiều khó khăn. Quá trình vận chuyển, thông quan hàng hóa kéo dài hơn so với trước đây do các yêu cầu kiểm soát dịch bệnh theo quy trình chặt chẽ. Hàng hóa tồn kho, thời gian thông quan kéo dài đã làm tăng chi phí logistics. Trung bình chi phí logistics trong chuỗi giá trị nông nghiệp chiếm khoảng 20% - 23% tổng chi phí hàng nông sản xuất khẩu (riêng mặt hàng rau, quả tươi chi phí này lên tới 60% - 70%)(6). Năm 2020, chi phí logistics tăng cao, giá cước container biến động mạnh, tùy từng thị trường mà tăng 2-3 lần so với trước dịch. Chi phí logistics tăng chủ yếu do chi phí vận chuyển cao, thiếu container rỗng, các phụ phí và phí địa phương cao do các hãng vận chuyển nước ngoài áp vào cho chủ hàng, hạn chế về cảng và kết cấu hạ tầng, các tỉnh thành đưa ra các phí hạ tầng mới, chi phí về kiểm tra chuyên ngành.
Việc hạn chế giao thông, tắc nghẽn trong vận chuyển gây khó khăn cho việc mua bán sản phẩm kịp thời, dẫn đến nhiều loại nông sản bị hư hỏng hoặc phát sinh chi phí để duy trì, bảo quản nông sản, ví dụ như chi phí thức ăn nuôi cá trong thời gian chờ tìm nguồn tiêu thụ. Nông dân cũng thận trọng hơn và có tâm lý chờ đợi trước khi đầu tư vụ mới. Kết quả là suy giảm sản lượng, chất lượng và thu nhập của nông dân.
Trong thời gian tới, đại dịch COVID-19 tiếp tục diễn biến khó lường. Tổ chức Y tế thế giới ((WHO) thậm chí mô tả tình hình đại dịch COVID-19 ở Ấn Độ “hơn cả đau lòng” do số ca bệnh và ca tử vong liên tục phá kỷ lục. Các nước láng giềng của Việt Nam, như Lào, Campuchia, Thái Lan, Philippin đều ghi nhận số ca nhiễm và tử vong tăng và áp dụng các biện pháp chống dịch nghiêm ngặt hơn. Các chuỗi cung ứng nông sản toàn cầu có khả năng bị đứt gãy do các biện pháp phong tỏa, cách ly, thiếu hụt lao động và nguồn cung đầu vào. Trong bối cảnh đại dịch COVID-19 còn diễn biến phức tạp và có thể kéo dài trong thời gian tới, nguy cơ đứt gãy các chuỗi cung ứng nông nghiệp là vấn đề đáng quan tâm, vì nông nghiệp Việt Nam phụ thuộc khá lớn vào thị trường xuất khẩu. Điều đáng lưu ý là các thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam, như Mỹ, Liên minh châu Âu (EU), Trung Quốc, Nhật Bản đều có chỉ số đứt gãy chuỗi cung ứng ở mức cao theo báo cáo của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO).
Tại thị trường trong nước, suy thoái kinh tế toàn cầu đã và sẽ có ảnh hưởng đáng kể đến tăng trưởng kinh tế, thu nhập và tiêu dùng của người dân. Năm 2020 ghi nhận tăng trưởng kinh tế của Việt Nam là 2,91% - mặc dù vẫn tăng trưởng dương và là điểm sáng trong tăng trưởng kinh tế so với toàn cầu nhưng là là mức tăng trưởng thấp nhất trong vòng 10 năm qua. Suy thoái kinh tế toàn cầu ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động của các doanh nghiệp.
Thu nhập của cư dân nông thôn bị ảnh hưởng, đặc biệt đối với người lao động trong khu vực phi nông nghiệp. Trong khi đó, gói hỗ trợ của Chính phủ cho nhóm này chưa phát huy nhiều tác dụng. Có hiện tượng di cư ngược từ đô thị về nông thôn để kiếm việc làm và sinh kế do việc làm trong khu vực công nghiệp và dịch vụ đô thị suy giảm trong bối cảnh đại dịch COVID-19. Điều này gây sức ép trong việc tạo việc làm nông nghiệp và phi nông nghiệp ở nông thôn). Đồng thời, do sức ép về sinh kế và ưu tiên xử lý phòng chống dịch COVID-19, các mục tiêu phát triển môi trường bền vững có thể không được quan tâm đúng mức.
Trong thời gian tới, nông nghiệp cần được quan tâm mạnh mẽ để tiếp tục phát huy vai trò trụ đỡ cho nền kinh tế trong khủng hoảng. Vai trò bảo đảm an ninh lương thực, bảo đảm đầy đủ nguồn cung thực phẩm và dinh dưỡng của nông nghiệp đặc biệt quan trọng cho ổn định xã hội khi tiêu dùng lương thực, thực phẩm trung bình chiếm 47,3% trong tổng chi tiêu cho đời sống. Tỷ lệ này cao hơn với nhóm thu nhập trung bình và thấp, đạt từ 53% - 56% tổng chi tiêu cho đời sống bình quân tháng của hộ(11). Đồng thời, khu vực nông thôn còn là bệ đỡ cho sinh kế của trên 65% người dân trong bối cảnh đại dịch COVID-19 tiếp tục diễn biến phức tạp trong thời gian tới. Thu nhập của lao động nông thôn nói chung sẽ bị suy giảm, đặc biệt đối với lao động phi nông nghiệp, lao động di cư (cả trong và ngoài nước) bị mất việc làm. Vì vậy, việc bảo đảm sinh kế cho cư dân nông thôn và nguồn cung lương thực, thực phẩm với giá cả hợp lý là yêu cầu ngày một cấp bách trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 diễn biến phức tạp trong thời gian tới.
Bên cạnh việc bảo đảm nguồn cung và năng lực cạnh tranh, cơ cấu sản xuất và phân phối hàng nông, lâm, thủy sản cũng cần thay đổi để đáp ứng nhu cầu mới của người tiêu dùng trong nước trong bối cảnh COVID-19. Đồng thời, cần tiếp tục theo dõi những hệ lụy về môi trường do sức ép của tình trạng di cư ngược thành thị - nông thôn do đại dịch COVID-19 gây ra.
Một số gợi ý đối với ngành nông nghiệp để ứng phó với đại dịch COVID-19 trong thời gian tới
Để đạt được mục tiêu tăng trưởng, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, bảo đảm sinh kế cho người dân nông thôn, duy trì năng lực cạnh tranh và xuất khẩu, phát huy vai trò trụ đỡ cho ổn định kinh tế, chính trị, xã hội, cần tạo ra một số đột phá chiến lược để ngành nông nghiệp Việt Nam thích ứng với điều kiện bình thường mới (và cũng rất bất định) do đại dịch COVID-19 gây ra trong thời gian tới. Một số gợi ý có thể xem xét bao gồm:
Một là, tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại nông nghiệp, trong đó tập trung phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Tăng cường ứng dụng công nghệ số, chuyển đổi từ chuỗi sử dụng nhiều lao động tập trung tại một địa điểm sang chuỗi phi tập trung, giảm tiếp xúc trực tiếp, áp dụng công nghệ số để liên kết chuỗi, truyền đạt thông tin dọc chuỗi kịp thời và minh bạch, bảo đảm truy nguyên nguồn gốc, xuất xứ, chất lượng và an toàn thực phẩm, sẵn sàng cho các tình huống xấu nhất của đại dịch COVID-19 buộc phải áp dụng các biện pháp cách ly, phong tỏa chặt chẽ. Kèm theo đó, áp dụng số hóa mạnh mẽ trong hệ thống quản lý nhà nước và dịch vụ công trong ngành nông nghiệp (thủy lợi, khuyến nông, truy xuất nguồn gốc, quản lý chất lượng và an toàn thực phẩm, hỗ trợ tiếp cận thị trường và tài chính…). Dự báo thường xuyên và cảnh báo sớm về cung cầu thị trường thông qua nhiều kênh, kể cả truyền hình, mạng internet, mạng xã hội...
Hai là, tiếp tục đẩy mạnh các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu, tránh can thiệp làm gián đoạn xuất khẩu. Chủ động tham gia và tích cực đưa ra các đề xuất mới về mở cửa thị trường, thúc đẩy chuỗi toàn cầu tại các diễn đàn toàn cầu và khu vực nhằm phát triển và đa dạng hóa các thị trường xuất khẩu; tích cực khai thác cơ hội của các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới mang lại. Xây dựng và quảng bá hình ảnh về nông nghiệp Việt Nam với tư cách là quốc gia có nguồn cung ứng lương thực, thực phẩm có trách nhiệm, minh bạch và bền vững.
Ba là, tăng cường phát triển thị trường nội địa, xây dựng các chuỗi cung ứng hoàn chỉnh cho thị trường nội địa, có kế hoạch dự trữ và dành luồng vận chuyển ưu tiên cho nông sản thực phẩm trong trường hợp khẩn cấp. Thúc đẩy tiêu thụ nông sản qua các kênh siêu thị và hệ thống cửa hàng tiện lợi. Đồng thời trong bối cảnh dịch bệnh, người tiêu dùng hạn chế mua hàng theo phương thức truyền thống, cần tăng cường hợp tác giữa người sản xuất với một số sàn thương mại điện tử để cung cấp giải pháp tiêu thụ nông sản qua các kênh online. Tuyên truyền nâng cao nhận thức và hướng dẫn người tiêu dùng về an toàn thực phẩm và lựa chọn thực phẩm.
Bốn là, ưu tiên đầu tư công và thu hút đầu tư tư nhân để từng bước làm chủ công nghệ đầu vào hiện đại cho sản xuất nông nghiệp, phát triển công nghiệp chế biến nông sản (sơ chế, bảo quản, đóng gói, đồ hộp, đồ ăn sẵn; đặc biệt đối với lương thực, thực phẩm thiết yếu, như gạo, rau, quả, thịt, sữa, thủy sản…); phát triển hệ thống logistics hỗ trợ chuỗi cung ứng nông sản, gắn kết với chuỗi giá trị toàn cầu nhằm đáp ứng nhu cầu mới của người tiêu dùng trên thế giới, trong đó đặc biệt lưu ý việc xây dựng các cảng biển, cảng cạn logistics quy mô lớn để trở thành trung tâm logistics nông sản cho khu vực Đông Nam Á. Thu hút các doanh nghiệp đầu tư xây dựng kho chứa, nhất là kho lạnh đáp ứng các yêu cầu/tiêu chuẩn bảo quản của các thị trường bằng các chính sách ưu đãi về tín dụng, đất đai, thuế. Rà soát và đổi mới chiến lược thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), đặc biệt thu hút đầu tư của các đối tác lớn trong dòng chuyển dịch đầu tư toàn cầu thời gian gần đây vào hiện đại hóa, đồng bộ từ khâu sản xuất đến thu hoạch, bảo quản, chế biến, phân phối cho chuỗi giá trị nông nghiệp.
Năm là, tập trung công tác đào tạo nghề, chuyển đổi việc làm, trang bị kỹ năng mới cho cư dân nông thôn, sẵn sàng đáp ứng sự thay đổi và nhu cầu mới của thị trường về cơ cấu, chất lượng hàng nông sản, ngành, nghề và dịch vụ nông thôn. Tập trung các gói hỗ trợ cho doanh nghiệp phát triển được thị trường và thông qua doanh nghiệp đào tạo lại, tập huấn, trang bị kỹ năng ngành, nghề cho người dân nông thôn.
Sáu là, chuẩn bị sẵn sàng chương trình phục hồi xanh nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới xanh, văn minh, thịnh vượng. Xây dựng hệ thống thông tin cảnh báo rủi ro do về thiên tai, dịch bệnh gắn với các gói hỗ trợ về tín dụng và hỗ trợ sinh kế trực tiếp trong bối cảnh đại dịch COVID-19 và biến đổi khí hậu còn diễn biến phức tạp./.
TS. Đào Văn Cường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn