Hiệp định TPP

Diễn đàn Cạnh tranh Quốc gia giới thiệu bài viết của ông Lương Văn Tự, nguyên Thứ trưởng Bộ Thương mại, nguyên Trưởng đoàn Đàm phán WTO của Việt Nam, đề cập những cam kết trong TPP và vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp trong 2 năm tới, trước khi TPP được các nước phê chuẩn.

Đại diện 12 nước tham gia đàm phán TPP tại Atlanta (Mỹ). Ảnh: USTR


Việt Nam đã và đang đàm phán trên 10 hiệp định thương mại với mức độ cam kết cao và tự do hóa cao cả về hàng hóa, dịch vụ và lĩnh vực khác như văn hóa xã hội, an ninh và quốc phòng. Đặc biệt là các FTA với Hàn Quốc, với Nga và một số nước Đông Âu, Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC), FTA với EU và TPP với 11 nước.

Tính đến thời điểm này, Việt Nam là quốc gia có mức độ mở cửa tự do hóa cao ở khu vực, chỉ sau Singapore và Hong Kong (Trung Quốc). Các hiệp định thương mại tự do này có mức độ, phạm vi tác động và mức lan tỏa tới kinh tế xã hội khác nhau.

Về hàng hóa thì tất cả các FTA này đều gần giống nhau, về mức độ tự do hóa sẽ đưa thuế nhập khẩu xuống 0 -5% với lộ trình khác nhau 5 năm, 7 năm, 9 năm… Về dịch vụ thì TPP cam kết cao hơn các cam kết trong WTO.

Trong bài này, tôi muốn bàn sâu về các cam kết trong TPP và những vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp từ nay đến khi TPP được các nước phê chuẩn.

10 cam kết cao hơn WTO

So với các cam kết WTO, tôi thấy TPP có trên 10 cam kết dịch vụ và hàng hóa cao hơn cam kết WTO.

Thứ nhất là về hàng hóa, mức độ cam kết bằng Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) của AEC. Về lộ trình và từng mặt hàng có độ chênh nhưng không đáng kể. Nhưng khác với AEC, TPP cam kết cả biểu thuế xuất khẩu. Lâu nay các nước đang và kém phát triển trong WTO không cam kết thuế xuất khẩu vì phần lớn các nước này dựa vào tài nguyên xuất khẩu, nếu cam kết họ sẽ bị “bó tay” trong việc xử lí thu ngân sách.

Thứ hai là mở cửa dịch vụ, đầu tư dành đãi ngộ quốc gia cho các nhà đầu tư nước ngoài. Đầu tư là hiệp định trong WTO. Khi gia nhập WTO chúng ta mới chỉ cam kết minh bạch hóa các chính sách đầu tư liên quan tới thương mại. Nay chúng ta cam kết mở cửa dịch vụ này và dành cho nhà đầu tư nước ngoài đối xử không kém với nhà đầu tư trong nước.

Thứ ba là thị trường mua sắm của các cơ quan chính phủ. Đây là hiệp định trong WTO thường áp dụng cho các nước phát triển. Những nước đang phát triển như Việt Nam thì mua sắm chính phủ thường chiếm đến 40% GDP. Việc mở cửa thông qua đấu thầu (có loại trừ dự án liên quan an ninh, quốc phòng) sẽ gây ra cạnh tranh gay gắt giữa doanh nghiệp trong nước với các nhà đầu tư nước ngoài đối với các dự án có số vốn trung bình trở lên. Trong khi các doanh nghiệp của ta còn bị hạn chế vốn, công nghệ và trình độ quản lý các dự án lớn. Nếu doanh nghiệp Việt Nam không biết liên kết, dễ rơi vào tình trạng thầu phụ như các dự án ODA.

Thứ tư là các doanh nghiệp mà nhà nước nắm giữ 50% vốn điều lệ phải hoạt động theo cơ chế thị trường, không có hành vi phân tranh khi có vị trí độc quyền. Phải minh bạch công khai, nhà nước không được trợ cấp quá mức gây ảnh hưởng tới nước khác và không gây bất bình đẳng lớn…

Thứ năm là bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Mức độ cam kết cao hơn, thời gian bảo hộ dài hơn và xử lý hình sự khi xâm phạm ở quy mô thương mại và thu lợi bất chính.

Thứ sáu là thương mại và môi trường, đây là cam kết mới. Ta cam kết bảo vệ môi trường tuân theo các quy định của điều ước quốc tế đã hoặc sẽ tham gia và có chế tài trong trường hợp vi phạm; không trợ cấp nghề đánh bắt cá gây ảnh hưởng tới các loài thủy, hải sản đang bị đánh bắt quá mức.

Thứ bảy là thương mại điện tử. Trong WTO, chúng ta mới cam kết hiện diện thương mại của doanh nghiệp và cá nhân. Ở đây chúng ta cam kết thương mại điện tử là cho phép truy cập lưu truyền thông tin trên Internet nghĩa là thương mại qua biên giới. Đồng thời không phân biệt đối xử sản phẩm số, không áp dụng thuế nhập khẩu, phí nội địa đối với sản phẩm số. Việc kiểm soát thông tin nếu không vì các mục tiêu chính đáng thì cũng không cần yêu cầu đặt máy chủ ở nước sở tại, trừ mục đích an ninh và quốc phòng.

Thứ tám là minh bạch hóa và chống tham nhũng. Trong WTO, chúng ta có cam kết minh bạch hóa các chính sách kinh tế, thương mại và phải thông báo cho doanh nghiệp biết 60 ngày trước khi ban hành các chính sách này. Tham gia TPP, chúng ta cam kết thêm một số nguyên tắc của Liên Hiệp quốc về chống tham nhũng (UNCAC).

Thứ chín là cam kết về điều kiện lao động. Đây là quy định của ILO, trong hiệp định thương mại dệt may với Hoa Kỳ, Chính phủ không cam kết tiêu chuẩn này mà chỉ chấp nhận thỏa thuận về điều kiện lao động giữa các doanh nghiệp dệt may với nhau... Nhưng trong TPP chúng ta cam kết điều kiện lao động và cho phép lập công đoàn ở cơ sở theo lộ trình.

Thứ mười là cho phép nhà đầu tư được kiện chính phủ trong một số trường hợp đặc biệt khi chính phủ tước đoạt tài sản của các nhà đầu tư. Những cam kết mới này, đòi hỏi Chính phủ và Quốc hội phải sửa các luật có liên quan đến mua sắm Chính phủ, Luật Đấu thầu, Luật Đầu tư, Luật Danh nghiệp, Luật Sở hữu trí tuệ và Luật Dân sự…

DN cần làm gì trong 2 năm nữa?

Đối với doanh nghiệp, thách thức đặt ra rất lớn khi thời gian chuẩn bị chỉ còn độ 2 năm nữa, trước khi Quốc hội các nước phê chuẩn và TPP có hiệu lực.

Thách thức mang tính xu hướng toàn cầu là thương mại điện tử đang từng bước nhanh chóng thay thế thương mại truyền thống nhờ công nghệ thông tin, Internet phát triển. Buôn bán qua mạng không phải chỉ trong nước và cho phép qua biên giới. Đòi hỏi doanh nghiệp vừa có trình độ kinh doanh xuất nhập khẩu vừa có hiểu biết công nghệ thông tin, vừa thông thạo ngoại ngữ và biết cách quản lý rủi ro đối tác làm ăn, quản lý rủi ro tài chính để hạn chế tổn thất và lừa đảo…

Hai là khi thuế suất xuống 0 – 5% thì thị trường sẽ là bình thông nhau cho hàng hóa di chuyển, doanh nghiệp vừa được hưởng lợi mua hàng giá rẻ, xuất khẩu những mặt hàng mình có thế mạnh như may mặc, giày dép, nông lâm thủy sản nhiệt đới… nhưng khi thuế nhập khẩu giảm xuống 0% thì hàng nhập khẩu cũng sẽ cạnh tranh quyết liệt với hàng trong nước. Đồng thời muốn xuất khẩu và hưởng ưu đãi thuế xuất khẩu bằng 0% phải tuân thủ quy tắc xuất xứ. Nên điều đầu tiên phải đọc nghiên cứu kỹ các điều khoản của Hiệp định. Chỗ nào chưa rõ phải hỏi chuyên gia hoặc Bộ Công Thương, Bộ Tài chính và các Bộ ngành phụ trách từng lĩnh vực của Hiệp định để biết đâu là cơ hội, đâu là thách thức.

Ba là xây dựng chiến lược mới về thị trường, sản phẩm, thương hiệu, mạnh dạn đầu tư công nghệ mới phù hợp, đào tạo đội ngũ cán bộ về nghiệp vụ ngoại ngữ, quản trị để nâng cao năng lực cạnh tranh. Mở rộng mạng lưới tiêu thụ trong và ngoài nước theo hình thức kinh doanh chuỗi. Thay đổi cách tư duy, sản phẩm sản xuất ra không phải chỉ dựa vào trên 90 triệu người Việt Nam mà phải nghĩ sản phẩm cho thị trường 600 triệu người trong AEC, 800 triệu người trong TPP, 500 triệu người trong FTA với EU... Như cách làm của Vinamilk, Tôn Hoa Sen, Viettel....

Bốn là nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường trong nước theo lộ trình mở cửa từng lĩnh vực để xây dựng lộ trình mở rộng sản xuất và mạng lưới tiêu thụ. Đăng ký thương hiệu, các phần mềm quản trị và quyết toán với các cơ quan quản lý để bảo vệ cho mình.

Năm là tăng cường công tác quản lý tài chính và quản trị rủi ro, lợi ích trước mắt và lâu dài, mạnh dạn thuê các chuyên gia giỏi thực sự giúp mình.

Sáu là tự do hóa thương mại càng cao, nhà nước giảm và từng bước từ bỏ vai trò bảo hộ qua thuế quan, qua trợ cấp, độc quyền, thương mại nhà nước, mở cửa thị trường và chấp nhận đối xử quốc gia trong các lĩnh vực. Để giữ thị trường và bảo vệ sản xuất, các nước đã chuyển công việc này cho các hiệp hội ngành hàng. Nên trong thời gian tới, các hiệp hội cần nâng cao năng lực để liên kết các hội viên trong sản xuất kinh doanh, trong việc bảo vệ thị trường thông qua các công cụ chống bán phá giá, trợ cấp, độc quyền và văn hóa tiêu dùng…

Người châu Âu có câu “no challenge, no life” hoặc “no venture, no business” nghĩa là không có thử thách thì không có cuộc sống, hay không phiêu lưu mạo hiểm thì không có công việc. Người Việt Nam ta cũng có câu “lửa thử vàng, gian nan thử sức”.

Cánh cửa hội nhập mở rộng hơn bao giờ hết tạo ra rất nhiều cơ hội song cũng đặt ra rất nhiều thách thức cho các doanh nghiệp. Biết tận dụng cơ hội về thị trường vốn, công nghệ, nguồn lực con người, biết vượt qua thách thức, biến thách thức trở thành cơ hội mới thì cơ hội sẽ được nhân đôi cho những ai biết nắm bắt thời cơ này.

Lương Văn Tự

Nguyên Trưởng đoàn đàm phán Việt Nam gia nhập WTO

Chủ tịch Hiệp hội Cà phê, ca cao Việt Nam