Hiệp định CPTPP

1. Những cơ hội ngành nông nghiệp Việt Nam trước cácHiệp định thương mại tự do, đặc biệt các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới

Nhiều năm nay, nông nghiệp vẫn là một trong ba cột trụ của nền kinh tế nước ta, trong đó thủy sản được đánh giá mạnh nhất, tiếp đến là trồng trọt và chăn nuôi. Việt Nam có khoảng 10,3 triệu hecta đất canh tác, giá trị xuất khẩu nông sản lớn; nhiều nông sản có vị trí cao tham gia chuỗi nông sản toàn cầu. Năm 2017 mặc dù bị ảnh hưởng thiên tai lũ lụt, bão lốc… song tổng giá trị xuất khẩu nông sản Việt Nam vẫn đạt trên 36,37 tỷ USD, chiếm 20% kim ngạch xuất khẩu. Thực tiễn chiến lược phát triển kinh tế quốc gia vẫn cho thấy lấy nông nghiệp là đòn bẩy vẫn đúng với nước ta trong mọi thời điểm và giai đoạn vì rõ ràng với nông nghiệpViệt Nam so với một số ngành hàng khác vẫn có nhiều lợi thế cạnh tranh hơn khi tham gia chuỗi giá trị toàn cầu.

Trong một điều tra gần đây của Vietnam Report với cộng đồng các doanh nghiệp lớn trong các bảng xếp hạng V1000 – Top 1000 doanh nghiệp nộp thuế thu nhập doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam và VNR500 – Top 500 doanh nghiệp tăng trưởng nhanh nhất Việt Nam, khi được hỏi về những điều chỉnh thuế suất theo CPTPP có tác động ra sao đến doanh nghiệp, có đến 77% doanh nghiệp ngành nông nghiệptham gia trả lời phỏng vấn cho rằng sẽ có ảnh hưởng tích cực, đây là những thông tin rất lý thú cho nông nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế. Khi tham gia các Hiệp định thương mại tự do về lý thuyết Việt Nam chúng ta có thị trường rất lớn là cơ hội tốt kích thích sản xuất phát triển, đổi mới sáng tạo; là cơ hội tốt tạonhiều đột phá mới để tiếp cận quá trình toàn cầu hóa. Đến nay, Việt Nam tham gia 13 Hiệp định thương mại tự do với các nước, trong đó cộng đồng ASEAN và các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới: CPTPP và EVFTA có ý nghĩa cực kỳ quan trọng góp phần thúc đẩy kinh tế Việt Nam phát triển nhanh, mạnh và bền vững trong những năm tới.

 Trong các hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam đã ký kết, các Hiệp định có thị trường lớn sẽ tác động rất tích cực đến thị trường nông sản Việt Nam. Đây là cơ hội thị trường rất tiềm năng trước mắt và lâu dài, song một điều cần quán triệt thông suốttrong tổ chức sản xuất nông nghiệp phải thay đổi tư duy sản xuất phục vụ thị trường nội địa sang phục vụ thị trường xuất khẩu có chất lượng cao từ trồng trọt, nuôi trồng, chăn nuôivà chế biến với điều kiện nông sản Việt Nam phải đáp ứng 04 yêu cầu cơ bản: nông sản có giá thành hợp lý; nông sản phải có thương hiệu; sản xuất theo tiêu chuẩn chứng nhận, công nghệ bảo quản sau thu hoạch hấp dẫn và truy xuất nguồn gốc; nông sản đảo bản an toàn thực phẩm. Qua phân tích cho thấy khi thực thi các Hiêp định thương mại tự do là một cơ hội rất rõ ràng nhìn thấy là thị trường xuất khẩu rộng lớn hơn; chỉ tính riệng 4 Hiệp định định thương mại tự do phân tích nêu trên Việt Nam đã có một thị trường với khoảng 1.794 triệu dân; như vậy đồng nghĩa thị trường chuỗi cung cấp mới sẽ được hình thành, giúp Việt Nam giảm áp lực phụ thuộc vào một số thị trường truyền thống hay bị thay đổi và quan trọng hơn hầu hết các mặt hàng nông sản sẽ được giảm thuế suất xuống 0% theo lộ trình sẽ giúp Việt Nam tăng lợi thế cạnh tranh so với các nước có cùng điều kiện sản xuất.

Một cơ hội hết sức quý báu đó là ngành nông nghiệp của chúng ta sẽ thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài và các nhà đầu tư chiến lược nước ngoài để hưởng ưu đãi thuế quan. Việc thu hút yếu tố ngoại này sẽ giúp đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu ngành nông nghiệp– một chủ trương lớn của chính phủ Việt Nam hiện nay, trong bối cảnh nhiều năm trở lại đây nông nghiệp là lĩnh vực rất yếu về thu hút vốn đầu tư và đang ở trong tình trạng suy giảm đáng lo ngại. Số liệu thống kê cho thấy tính chung trong cả năm 2014 chúng ta chỉ có khoảng 513 dự án FDI lớn, nhỏ đầu tư vào nông nghiệp và lượng vốn FDI đầu tư vào nông nghiệp rất khiêm tốn, với tổng số vốn đăng ký trên 3,43 tỷ USD, chỉ chiếm 3,06% tổng số dự án FDI và chỉ chiếm 1,4% tổng số vốn FDI đầu tư vào Việt Nam.

Theo nhiều dự báo một mặt do biến đổi khí hậu ngày càng ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất nông nghiệp, một mặt đáp ứng yêu cầu tăng dân số trong những thập niên tới làm biến đổi sâu sắc ngành nông nghiệp trên toàn cầu, trong những thập niên qua tuy mức độ tăng trưởng của ngành nông nghiệp cao hơn mức tăng dân số thế giới nhưng vẫn không đáp ứng được vấn đề an ninh lương thực toàn cầu. Theo báo cáo của Tổ chức Nông lương Liên Hiệp Quốc (FAO) dân số thế giới hiện nay khoảng 7,6 tỷ người song tỷ lệ người dân thiếu đói chiếm 12% khoảng 876 triệu người; dự kiến dân số thế giới sẽ tăng lên 9,8 tỷ vào năm 2050, sản xuất nông nghiệp sẽ cần phải tăng 70% để đáp ứng nhu cầu vào thời điểm đó. Như vậy yêu cầu cấp bách cho ngành nông nghiệp toàn cầu là phải gia tăng năng suất nhằm vừa đảm bảo lương thực thực phẩm ăn đủ no cho số người thiếu đói, đảm bảo cho dân số thế giới chung, song một mặt phải sản xuất các lương thực, thực phẩm có chất lượng cao phục vụ nhu cầu một thị phần rất lớn khoảng 30 -35%  dân số là ăn ngon, ăn bổ và ăn có tính phòng trị bệnh trên toàn cầu hiện nay và gia tăng đột biến trong tương lai; như vậy giải pháp làm như thế nào để bảo đảm an ninh lương thực và chất lượng nông sản phục vụ toàn cầu quả là bài toán vô cùng hóc búa của nhân loại, nhất là trong bối cảnh tình trạng xung đột, bất ổn và chiến tranh thương mại một số quốc gia, dịch bệnh và thời tiết đang diễn biến ngày càng phức tạp, khó lường; đó là bài toán đặt ra cho ngành nông nghiệp trên thế giới nói chung, nông nghiệp Việt Nam nói riêng, do đó việt Nam sẽ có nhiều triển vọng ngày càng cao tham gia phong phú về số lượng, chất lượng và ngành hàng trong chuỗi nông sản toàn cầu.

Việt Nam đang thực hiện quyết liệt đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp, một trong những nội dung phải tái cơ cấu là chuyển mạnh sản xuất nhỏ lẻ sang quy mô sản xuất hàng hóa; nhiều nông sản có tác động thị trường thế giới như: lúa gạo, cà phê, thủy sản, cao su, hồ tiêu, chè, giá trị xuất khẩu nông sản năm 2017 đạt 36.37 tỷ USD; nếu chúng ta tiếp tục tổ chức sản xuất tốt, ứng dụng khoa học công nghệ khai thác ngưỡng đội trần năng suất cây trồng, vật nuôi, làm tốt công nghệ sau thu hoạch khi tham gia các hiệp định thự do thế hệ mới: Hiệp định CPTPP có thị trường 480 triệu dân, Hiệp định EVFTA có thị trường 500 triệu dân sẽ có nhiều lợi thế để thị trường nông sản Việt Nam mở rộng.

 Hiện nay có nhiều doanh nghiệp có quy mô lớn, đầu tư lĩnh vực khác nay cũng chuyển sang đầu tư nông nghiệpnhư: tập đoàn Vincom, Hoàng Anh Gia Lai, tập đoàn thép Hòa Phát, PFT, tập đoàn Trường Hải …; toàn quốc hiện nay có 40 doanh nghiệp được công nhận doanh nghiệp công nghệ cao, đây là những nhân tố mới có vai trò tích cực góp phần làm thay đổi tổ chức sản xuất, sẵn sàng chủ động tham gia chuỗi nông sản toàn cầu.

2. Những thách thức ngành nông nghiệp Việt Nam trước các Hiệp định thương mại tự do, đặc biệt các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới

Song song với những cơ hội ngành nông nghiệp Việt Nam trước yêu cầu hội nhập quốc tế nêu trên cho thấy có nhiều mảng sáng, có nhiều cơ hội rất tốt để ngành nông nghiệp Việt Nam tạo sự kỳ diệu một số nông sản trên thị trường quốc tế. Việt Nam sẽ trở thành cường quốc nông nghiệp vào những năm 2025-2030; tuy  nhiên khi Việt Nam hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đặc biệt là tham gia CPTPP và  EVFTA ngành nông nghiệp Việt Nam cũng đặt ra một số thách thức cơ bản sau đây:

Khả năng hội nhập quốc tế của doanh nghiệp Việt Nam chưa sẵn sàng, thậm chí còn lúng túng, sức cạnh tranh và khả năng thích ứng thị trường còn hạn chế, mặc dù Việt Nam tham gia tham gia WTO từ năm 2007, nhưng tính chủ động của doanh nghiệp trong việc nắm bắt các quy định luật pháp quốc tế còn hạn chế; khả năng đàm phám thương mại chưa sâu sắc, hiệu quả. Mặt khác Việt Nam tham gia CPTPP và EVFTA đây là cơ hội lớn cho nông sản Việt Nam do có thị trường lớn, tuy nhiên thực tế tỷ lệ nông sản sản xuất không an toàn thực phẩm còn chiếm tỷ lệ cao; chất lượng nông sản không đồng đều; giá thành cao, không chứng minh nguồn gốc xuất xứ rõ ràng thì nông sản Việt Nam sẽ khó cạnh tranh; nếu không quyết liệt khắc phục các hạn chế nêu trên thì Việt Nam không chỉ mất lợi thế thị trường xuất khẩu đến các nước thành viên CPTPP và EVFTA mà Việt Nam còn trở thành thị trường tiêu thụ nông sản của các nước thành viên CPTPP và EVFTA.

Năng suất lao động Việt Nam nói chung, trong lĩnh vực nông nghiệp nói riêng quá thấp so với các nước thành viên CPTPP và EVFTA, do tỷ lệ ứng dụng cơ giới trong sản xuất nông nghiệp thấp, tỷ lệ diện tích canh tác ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp thông minh trên cây trồng, vật nuôi chưa nhiều so với tiềm năng; quy mô diện tích sản xuất nhỏ, tỷ lệ kinh tế hộ chiếm tỷ trọng cao, là nguyên nhân dẫn đến giá thành nông sản cao, dẫn đến sức cạnh tranh tham gia chuổi nông sản toàn cầu thấp so với một số nước thành viên.

Tỷ lệ doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp chiếm tỷ trọng thấp. Theo số liệu thống kê đến quý II/ 2018 cả nước có khoảng hơn 49.600 doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, chiếm 8% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động trên cả nước; trong đó có 55% doanh nghiệp có nguồn lực tài chính nhỏ hơn 5 tỷ đồng, vì vậy chưa trở thành đầu tàu cho nền sản xuất hàng hóa, chưa tạo chuỗi giá trị hiệu quả, chưa tạo tính đồng nhất của nông sản khi có đơn đặt hàng sản lượng lớn trong một thời gian nhất định, do đó một trong những nguyên nhân dẫn đến mất khách hành tiềm năng, các nước thành viên sẵn sàng tìm khách hàng mới trong các nước thành viên mới sẽ cạnh tranh thị trường nông sản Việt Nam.

Khi tham gia sâu rộng vào CPTPP và EVFTA, những yếu điểm của Nông nghiệp Việt Nam sẽ dần bộc lộ; những mô hình sản xuất, canh tác nhỏ lẻ và manh mún của Nông nghiệp Việt Nam sẽ gặp nhiều trở ngại khi ra thị trường lớn. Trong bảng xếp hạng V1000 – Top 1000 doanh nghiệp nộp thuế thu nhập doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam năm 2015 mới được Vietnam Report công bố mới đây cũng cho thấy số doanh nghiệp nông nghiệp chiếm rất khiêm tốn, chỉ có 29 doanh nghiệp và đóng góp chưa đến 2% vào tổng số thuế của bảng xếp hạng.

 Qua nghiên cứu thực tế ở nhiều địa phương cho thấy ngành nông nghiệpphải đối mặt với các thách thức bao gồm công nghệ sản xuất và chế biến phần lớn trình độ trung bình chiếm tỷ trọng cao, nông sản tính cạnh tranh toàn cầu thấp, cơ sở hạ tầng đầu tư dàn trải, xuống cấp gây tỷ lệ tổn thất sau thu hoạch còn cao, lực lượng lao động thiếu kĩ năng và chất lượng sản phẩm xuất khẩu thấp, tính liên kết thiếu bền vững. Ví dụ so sánh đánh giá trình độ ngành chăn nuôi của các nước trong khối CPTPP như: Australia, Canada, Nhật…hoặc Pháp, Hà Lan, Đức khối EVFTA phát triển hơn Việt Nam rất nhiều. Nếu các doanh nghiệp ngành chăn nuôi của nước ta không nhanh chóng, linh hoạt chuyển đổi thì kết cục xấu như thua lỗ, phá sản là việc khó tránh khỏi.

3. Những giải pháp khắc phục những hạn chế hiện nay khi Việt Nam tham gia các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới

Nhìn một cách tổng thể nếu so sánh với các nước thành viên mà Việt Nam là đối tác cho thấy nông nghiệp Việt Nam đang rất nhỏ lẻ, manh mún, lạc hậu về trình độ canh tác, năng suất thấp, làm thế nào cạnh tranh được với các nước có nền nông nghiệp hiện đại, quy mô sản xuất lớn, năng suất cao như Úc, Canada, Niu Dilan; các quốc gia EU trước thực trạng nền nông nghiệp Việt Nam như thế để cạnh tranh có hiệu quả trong chuỗi giá trị toàn cầu, trong thời gian tới ngành nông nghiệp Việt Nam cần thực hiện một số giải pháp cơ bản sau đây:

 

3.1. Rà soát, sơ kết đánh giá các chính sách thực tiễn, tiếp tục xây dựng các chính sách mang tính đột phá đáp ứng yêu cầu mới

Cần đổi mới quan hệ sản xuất phù hợp, từng bước chuyển dần quy mô kinh tế nông hộ sang kinh tế họp tác (tổ họp tác, họp tác xã); thực hiện liên kết sản xuất đa chiều; có cơ chế hình thành các họp tác xã nông nghiệp đa ngành, đa quản trị (mô hình doanh nghiệp chuyên doanh trong hợp tác xã) và liên kết giữa doanh nghiệp với nông dân sản xuất theo chuỗi giá trị đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.

Khẩn trương trong việc đào tạo nguồn nhân lực nông nghiệp để đáp ứng yêu cầu hội nhập, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp thông minh 4.0. Cần tiến hành các hình thức đào tạo phong phú, song song với đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao; cần phong phú hình thức đào tạo, cùng với đạo tạo chính quy từ cao đẳng, đại học cần có giải pháp đào tạo đồng bộ nguồn nhân lực với các thành phần tham gia trực tiếp nâng cao tính cạnh tranh nông sản Việt Nam như: cán bộ quản lý nhà nước, doanh nghiệp và nông dân để  họ nắm vững các thành tựu khoa học công nghệ trong và ngoài nước, kiến thức thị trường và luật pháp quốc tế; làm thay đổi nhận thức người nông dân sản xuất nông sản trong thời kỳ hội nhập để họ chủ động điều chỉnh phương thức sản xuất đảm bảo các yêu cầu hội nhập quốc tế để cạnh tranh các nông sản của các nước thành viên.

Chúng ta cần có giải pháp đồng bộ, quyết liệt hơn để nền nông nghiệpViệt Nam phát triển bền vững, hiện đại theo nguyên lý: “lấy khoa học công nghệ làm khâu đột phá; triển khai đồng bộ nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao là yêu cầu tất yếu để nâng cao năng suất, chất lượng; thực hiện triệt để tái cơ cấu ngành nông nghiệp; khai thác tối ưu lợi thế so sánh giá trị tổng hợp ngành hàng; chú trọng bảo vệ môi trường sinh thái trong điều kiện biến đổi khí hậu để nâng cao năng lực cạnh tranh nông sản trong quá trình hội nhập quốc tế”.

Cần có tầm nhìn mới trong nông nghiệp Việt Nam, trước hết là xác định thị trường tiềm năng của các nước thành viên các hiệp định thương mại mà Việt Nam đã ký kết. Trước hết xem họ có lợi thế và hạn chế nào, yêu cầu rào cản kỹ thuật của họ quan tâm yếu tố “bất biến” của họ là gì? từ đó phân tích thị trường mang tính chiến lược tập trung sản xuất nông sản xuất khẩu theo tiêu chuẩn của từng quốc gia đó, muốn làm được điều này Việt Nam cần tập trung quản lý chặt chẽ quy hoạch, sản xuất các cây trồng, vật nuôi có lợi thế tiềm năng xuất khẩu cao như: tiêu, gạo, cao su, chè, cà phê, điều, tơ tằm, rau, hoa, cacao, thủy sản, cây dược liệu…thứ hai là quản lý nông sản đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm.

Khẩn trương hoàn thiện các thể thế chính sách nhằm khai thác tổng hợp các nguồn lực để sử dụng có hiệu quả khai thác hết tiềm năng sản xuất nông nghiệp trong quá trình tham gia CPTPP và EVFTA theo nguyên lý sản xuất nông sản phải có chất lượng cao và an toàn thực phẩm. Thực hiện đầy đủ các cam kết nhằm thỏa mãn các hiệp định TBT; Hiệp định SPS của WTO thì các nước thành viên không thể tự dựng lên các hàng rào kỹ thuật để tự ý ngăn cản các sản phẩm nông nghiệpViệt Nam không vượt qua; muốn vậy việc sản xuất theo chuỗi giá trị là sự sống còn trong việc thực hiện các rào cản kỹ thuật với các nước thành viên CPTPP và EVFTA.

3.2. Việt Nam sẽ chọn cho mình một phân khúc thị trường nào để phát huy những lợi thế, tham gia vào chuỗi sản xuất cung ứng sản phẩm nông nghiệp toàn cầu

Để giá trị nông sản có sức cạnh tranh cao, sản xuất nông nghiệp bền vững, thì việc tổ chức sản xuất theo hướng toàn diện, hiện đại, đa chức năng trong nông nghiệp luôn là vấn đề đặt ra trước mắt và lâu dài, luôn là vấn đề lớn đặt ra ngành nông nghiệp Việt Nam tham gia vào chuỗi sản xuất cung ứng sản phẩm nông nghiệp toàn cầu. Chúng ta cần sản lượng cao, nhưng không phải là sản lượng nói chung mà là sản lượng nông sản hàng hóa có chất lượng cao, do đó việc đẩy mạnh liên kết chuỗi sản xuất để khai thác ngưỡng đội trần năng suất cây trồng, vật nuôi, đột phá khâu chế biến nông sản và phát triển thị trường một cách khoa học và sáng tạo sẽ có tác dụng thúc đẩy cung ứng sản phẩm nông nghiệp Việt Nam ngày càng có vị thế trong chuỗi nông nghiệp toàn cầu.

Rà soát ngay các thể chế, chính sách tiền tệ phù hợp với yêu cầu sản xuất mới; sản xuất nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn; sản xuất nông nghiệp trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Có giải pháp quyết liệt hơn để tháo gỡ nút thắt nguồn vốn tín dụng cho doanh nghiệp và nông dân; bởi vì nếu chính sách tín dụng không thông thoáng, thủ tục rườm rà, mất nhiều thời gian và thủ tục cho doanh nghiệp và nông dân khó tiếp cận nguồn vốn tín dụng để đầu tư sản xuất quy mô lớn với trình độ khoa học công nghệ cao hơn, yêu cầu rào cản kỹ thuật khắc khe hơn là một trong những nguyên nhân làm ngành nông nghiệp mất cơ hội, làm giảm sức cạnh tranh nông sản Việt Nam trước yêu cầu hội nhập quốc tế nói chung, CPTPP và EVFTA nói riêng.

Thực hiện xã hội hóa trong nghiên cứu triển khai khoa học công nghệ cho các tổ chức, cá nhân nghiên cứu, sản xuất, nhập khẩu giống vật nuôi, cây trồng mới có năng suất, chất lượng cao phù hợp với nhu cầu của thị trường, đồng thời tiếp tục thu hút đầu tư để các doanh nghiệp tổ chức sản xuất và liên kết với nông dân để chuyển giao kỹ thuật và sản xuất trên quy mô lớn trên một số cây trồng, vật nuôi có lợi thế so với quốc tế và khu vực. Nông nghiệpViệt Nam phải giữ thế chủ động có sẵn một sản lượng hàng hóa quy mô đủ lớn, có tính cạnh tranh cao nhằm chi phối thị trường CPTPP và EVFTA theo phân khúc thị trường nào thuận lợi thì xâm nhập khai thác toàn diện.

3.3. Cần thực hiện quy hoạch và quản lý quy hoạch, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp trong nước có nhiều tiềm năng đầu tư vào nông nghiệp.

 Trong lĩnh vực nông nghiệp, trong những năm qua từ Trung ương đến địa phương có rất nhiều quy hoạch song chất lượng quy hoạch còn thấp, vì vậy thực tế luôn có nhiều quy hoạch bị vỡ sau 2-3 năm, trong thực tiễn sản xuất cho thấy trong quá trình triển khai quy hoạch xuất hiện theo 2 xu hướng không tích cực đều gây hệ lụy đến phát triển nông nghiệp bền vững: một là, thực hiện quá thấp so với mục tiêu quy hoạch (cacao, chè, ngô); hai là, thực tế diễn ra quy mô diện tích vượt quá nhiều lần so với quy hoạch ( tiêu, cà phê, cây có múi); còn thiếu quy hoạch dài hạn để tạo ra những vùng nguyên liệu bền vững, công tác dự báo thị trường nông sản thế giới chưa hiệu quả; thiếu các ngành công nghiệp và dịch vụ phụ trợ đi kèm làm tăng giá thành sản xuất nông sản Việt.

Sản xuất nông nghiệp còn manh mún, nhỏ lẻ, ảnh hưởng đến quá trình cơ giới hóa, đưa kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp và hình thành các vùng sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, sản xuất hàng hóa lớn, muốn khắc phục vấn đề này việc hình thành các liên minh sản xuất trên cơ sở lấy doanh nghiệp làm hạt nhân tổ chức sản xuất theo chuỗi để nâng cao giá trị gia tăng, song việc bàn đi tính lại để có liên minh sản xuất phát triển bền vững cũng là vấn đề nhiều phức tạp phát sinh mới giữa doanh nghiệp và nông dân làm mất cơ hội đầu tư.

Việc tạo cơ chế thu hút các nhà đầu tư vào nông nghiệp với quy mô lớn và công nghệ cao theo chúng tôi đây là điều đáng mừng, tuy vậy nếu các nhà đầu tư lớn hiện nay quan tâm với nông nghiệp Việt Nam hiện nay giá như mức độ quan tâm như thời điểm bây giờ mà cách đây khoảng 10 năm thì nền nông nghiệp Việt Nam đến nay có bức tranh sẽ khác, thương hiệu nông sản Việt sẽ có vị thế nhất định trong chuỗi cung ứng nông sản toàn cầu? nhưng bây giờ các doanh nghiệp có quy mô lớn quan tâm đầu tư đến nông nghiệp theo tôi mặc dù chậm nhưng chưa muộn? để doanh nghiệp sản xuất đồng bộ công nghệ cao thì việc có quỹ đất đủ lớn là vấn đề cốt lõi cho chiến lược hội nhập đối với doanh nghiệp, song thực tế hiện nay các doanh nghiệp đầu tư chiến lược đều thiếu quỹ đất với quy mô lớn. Nhiều địa phương hiện nay để tìm một quỹ đất đủ lớn, liền vùng khoảng 250 - 500 ha để các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao trồng trọt các cây trồng có lợi thế so sánh, tính cạnh tranh cao, còn gặp rất nhiều khó khăn trong công tác giải phóng mặt bằng, mất rất nhiều thời gian và chi phí do vậy phần nào làm nản lòng nhà đầu tư.

Xuất phát từ những khó khăn, hạn chế nêu trên nhà nước cần nâng cao chất lượng quy hoạch, làm tốt công tác dự báo thị trường nông sản thế giới; cần có cơ chế chính sách hổ trợ các doanh nghiệp đầu tư chiến lược trong việc tạo quỹ đất sạch tập trung; hổ trợ công tác giải phóng mặt bằng; hổ trợ việc hình thành các liên minh sản xuất quy mô lớn; làm tốt công tác tuyên truyền thuyết phục có hiệu quả làm thay đổi tư duy mới đối với bà con nông dân để họ thấy được nông sản Việt “phải chiếm lĩnh hay chấp nhận tụt hậu” trong thị trường toàn cầu đầy biến động, để họ có quyết tâm cao cùng chung tay sản xuất nông nghiệptrước yêu cầu hội nhập quốc tế nói chung, tham gia CPTPP và EVFTA nói riêng nhằm sớm đưa nền nông nghiệp nước nhà khai thác nguồn lực tổng hợp luôn chủ động, thắng thế tham gia chuỗi cung ứng nông sản toàn cầu trong những năm tới.

Doanh nghiệp cần thay đổi tư duy kinh doanh trong bối cảnh mới, lấy thách thức về cạnh tranh là động lực để đổi mới và phát triển. Các Bộ ngành và địa phương, doanh nghiệp cần có tự tin khi tham gia CPTPP và EVFTA vì sẽ mang lại cơ hội cho doanh nghiệp nào chủ động đáp ứng với những thay đổi về môi trường kinh doanh do quá trình hội nhập quốc tế mang lại, thông qua việc xây dựng và điều chỉnh kế hoạch kinh doanh cho giai đoạn trung và dài hạn nhằm thúc đẩy dòng chảy nông sản vào các thị trường tiềm năng của các nước thành viên.

3.4. Cần có cuộc cách mạng đối với ngành nông nghiệp trước yêu cầu hội tham gia các Hiệp định thướng mại tự do thế hệ mới

Trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay, Việt Nam tham gia các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới,ngành nông nghiệp Việt Nam vừa có nhiều cơ hội, song cũng có nhiều thách thức đan xen. Trong vô vàn khó khăn thách thức nhưng chúng ta vẫn phải tìm ra những thế mạnh để mở đường cho ngành nông nghiệp Việt Nam cất cánh, hội nhập với các nước thành viên mà Việt Nam tham gia. Do đó cần cuộc cách mạng trong nông nghiệp với những nội dung đột phá cơ bản sau đây:

- Đẩy mạnh việc áp dụng cơ giới hóa, tự động hóa trong toàn bộ quá trình sản xuất, đặc biệt là các khâu chăm sóc và thu hoạch nhằm giảm giá thành sản xuất. Tập trung chỉ đạo toàn quốc tùy theo điều kiện thực tiễn về điều kiện sinh thái, lực lượng sản xuất, lợi thế cây trồng vật nuôi, sự sẵn sàng và năng động của doanh nghiệp và nông dân của từng địa phương cần chỉ đạo sản xuất nông nghiệpứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp thông minh 4.0, coi đây là cuộc cách mạng vừa trước mắt và lâu dài đối với ngành nông nghiệp Việt Nam trước yêu cầu hội nhập quốc tế, nếu chương trình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp thông minh 4.0 của Việt Nam triễn khai chậm bao nhiêu thì sự cạnh tranh nông sản Việt Nam mất lợi thế trước yêu cầu hội nhập quốc tế bấy nhiêu. Từng bước đột phá phát triển, tạo cuộc cách mạngnông nghiệp Việt Nam theo hướng toàn diện, bền vững, hiện đạiđa chức năng.

- Các Bộ, Ngành Trung ương và địa phương cần chỉ đạo sản xuất quyết liệt áp dụng các tiêu chuẩn an toàn thực phẩm; sản xuất có chứng nhận chất lượng sản phẩm như: GlobalGAP, VietGAP, VietGAHP, HCCP, ISO, Organic, GMP, UTZ, Rainforest... để đảm bảo chất lượng sản phẩm, đáp ứng nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước, đáp ứng rào cản kỹ thuật TBT nhằm đảm bảo yêu cầu thị trường các nước thành viên, xem đây là vấn đề cốt lõi là điểm mấu chốt cho ngành nông nghiệpViệt Nam cất cánh hội nhập, bởi vì thị trường nông sản toàn cầu không thể chấp nhận nông nghiệpViệt Nam sản xuất khối lượng nông sản lớn mà chất lượng nông sản không cao, mức độ an toàn thực phẩm vượt ngưỡng cho phép được xem đây là nội dung sống còn không chỉ là yếu tố cạnh tranh thị trường quốc tế mà còn ngay thị trường trong nước.

- Ưu tiên đầu tư đúng mức cho công tác nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao khoa học công nghệ để khai thác ngưỡng đội trần năng suất cây trồng, vật nuôi. Tổ chức quản lý chặt chẽ quy hoạch để có sản lượng nông sản đủ lớn đảm bảo các tiêu chuẩn kỹ thuật các nước thành viên hiệp định thương mại tự do. Cần có quyết sách mạnh mẽ hơn trong hoạt động nghiên cứu triễn khai khoa học công nghệ phục vụ nông nghiệp, hạn chế tối đa việc nghiên cứu các đề tài trùng lắp, nhỏ lẻ, tính ứng dụng thực tiễn thấp. Thực hiện huy động tối đa các nguồn lực xã hội hóa các hoạt động nghiên cứu khoa học; luôn khuyến khích, tôn vinh và ghi nhận các tổ chức và cá nhân không sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước nghiên cứu khoa học mà tạo ra các sản phẩm khoa học, công nghệ có tính mới, mang lại giá trị làm lợi cho cộng đồng dân cư cao của một địa phương hay của quốc gia như mô hình các nước: Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ, Israel, Australia, Bỉ, Pháp...). Có giải pháp đẩy mạnh thị trường khoa học công nghệ để khoa học công nghệ đóng góp ngày càng cao các yếu tố năng suất tổng hợp.

Cần có chính sách hành lang pháp lý cụ thể hơn để các nhà khoa học có sản phẩm khoa học được bảo hộ sở hữu trí tuệ tham gia cổ phần cùng doanh nghiệp, cùng chia sẻ lợi nhuận do giá trị công nghệ mang lại, chú trọng bảo vệ quyền lợi hợp pháp quyền sở hữu trí tuệ. Thực hiện quy mô lớn áp dụng hình thức kinh phí ngân sách mua bản quyền của các tổ chức và cá nhân, các nhà khoa học phục vụ sản xuất kịp thời, có như vậy mới khai thác tối đa sức sáng tạo nguồn lực khoa học công nghệ trong quần chúng nhân dân,để thật sự là cuộc cánh mạng khoa học công nghệ là then chốt phục vụ sản xuất trước yêu cầu hội nhập, nhằm nắm bắt cơ hội tham gia chuỗi cung ứng nông sản toàn cầu với tốc độ cao.

Cần khẩn trương có giải pháp cách mạng hơn trong việc thực hiện Quyết định số 899/QĐ-TTg ngày 10/6/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững, nếu chúng ta tổ chức triễn khai đồng bộ, khai thác lợi thế so sánh cây trồng, vật nuôi; trong chỉ đạo cần chú ý tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới; đồng thời tổ chức liên kết vùng một cách khoa học sẽ góp phần quan trọng cho đột phá nông nghiệp Việt Nam. Triển khai đồng bộ và quyết liệt Nghị định 57/2018/NĐ-CP về chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn và Nghị định 98/2018/NĐ-CP về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp nhằm khai thác tiềm năng lợi thế của nông nghiệp Việt Nam trong điều kiện biến đổi khí hậu và hội nhập quốc tế.

- Tiếp tục cải cách hành chính theo hướng phục vụ công dân và doanh nghiệp với yêu cầu nhanh và chính xác, đáp ứng dịch vụ hành chính công đảm bảo sự hài lòng của khách hàng. Xây dựng và đẩy mạnh các hình thức tổ chức sản xuất, dịch vụ có hiệu quả ở nông thôn. Nâng cao tỷ trọng ngành dịch vụ trong nông nghiệp, đặc biệt là dịch vụ khoa học trong nông nghiệphiện nay còn yếu kém chưa đáp ứng yếu cầu hội hội nhập. Tiếp tục xây dựng các cơ chế chính sách nhằm tiếp tục đổi mới phát triển hợp tác xã, tổ hợp tác, hỗ trợ kinh tế tập thể về đào tạo cán bộ quản lý, trợ giúp kỹ thuật và chuyển giao công nghệ, xúc tiến thương mại… Khuyến khích phát triển các mối liên kết tự nguyện, các liên minh trong tổ chức sản xuất, dịch vụ đầu vào, chế biến, tiêu thụ sản phẩm giữa nông hộ với doanh nghiệp, tổ chức khoa học, hiệp hội ngành hàng (trong đó doanh nghiệp là trung tâm). Từng địa phương ban hành các chính sách đặc thù phù hợp để thu hút đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn một cách hiệu quả và cách mạng hơn.

Có cơ chế đột phá vàcách mạng về thể chế chính sách hình thành một bộ phận doanh nghiệpnông nghiệpmới đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế theo hướng từ thấp đến cao: nông dân có tư duy thị trường phát triển thành doanh nghiệp tư nhân (công ty TNHH), khi quy mô lớn tiếp tục phát triển trở thành công ty cổ phần trong nông nghiệp nhằm tạo phương thức sản xuất quy mô tập trung. Song song với đầu tư đổi mới công nghệ cần đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao có kỹ năng quản trị giỏi, có chuyên môn sâu, am hiểu thông lệ quốc tế và có khả năng phân tích, dự báo thị trường quốc tế; tác phong làm việc năng động trong sản xuất kinh doanh, chủ động nắm chắc thành công khi tham gia thị trường các nước thành viênCPTPP và EVFTA.

Mở rộng hợp tác quốc tế, trong thời gian qua Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thực hiện rất tốt hợp tác quốc tế; thông qua đó tiếp cận nhiều dự án ODA hổ trợ các địa phương về nâng cao năng lực, phát triển hạ tầng nông thôn, hỗ trợ khoa học công nghệ, hỗ trợ thị trường, giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu...góp phần cho nông nghiệp nước nhà cải thiện nhiều mặt, năng suất và chất lượng nông sản tăng cao, tỷ trọng giá trị xuất khẩu nông sản ngày càng tăng, góp phần tham gia chuổi giá trị toàn cầu. Phát huy những kết quả đạt được trong những năm qua, cần tiếp tục mở rộng hợp tác quốc tế toàn diện hơn để thu hút các nguồn vốn ODA và FDI nhằm thu hút các dự án trọng tâm để nâng cao năng lực quản lý, tiếp cận công nghệ mới, đầu tư trang thiết bị, tham gia trực tiếp sản xuất kinh doanh để góp phần tạo bước đột phá ngành nông nghiệp Việt Nam trong tương lai, chủ động hội nhập quốc tế, chủ động thực thi có hiệu quả các FTA thế hệ mới, nâng cao sức cạnh tranh tham gia chuỗi nông sản toàn cầu; tạo đà để Việt Nam trở thành cường quốc nông nghiệp vào năm 2025- 2030./.

TS. Phạm Sửu, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lâm Đồng