Tin tức

Ngân hàng Thế giới ước tính rằng chỉ riêng việc tận dụng các ưu đãi thuế quan thực thi theo Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA) có thể giúp GDP Việt Nam tăng 2,4% và xuất khẩu tăng 12% vào năm 2030.    

Báo cáo được Ngân hàng Thế giới (WB) công bố ngày 19/5 với tựa đề “Tăng cường hội nhập quốc tế và thực thi Hiệp định EVFTA ước tính rằng chỉ riêng việc tận dụng các ưu đãi thuế quan thực thi theo hiệp định EVFTA có thể giúp GDP tăng 2,4% và xuất khẩu tăng 12% vào năm 2030, đồng thời thêm 100.000 - 800.000 người thoát nghèo vào năm 2030. Những lợi ích này là cần thiết để duy trì thành quả kinh tế tích cực trong lúc quốc gia ứng phó với đại dịch Covid-19.

hiep dinh evfta co the giu p gdp cua viet nam tang 24 va xuat khau tang 12 va o nam 2030
EVFTA có thể giúp GDP tăng 2,4% và xuất khẩu tăng 12% vào năm 2030

Bên cạnh đó, báo cáo cho rằng lợi ích từ việc tham gia những hiệp định thương mại thế hệ mới như EVFTA và Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) còn lớn hơn nữa nếu Việt Nam thực hiện nghị trình cải cách kinh tế và thể chế toàn diện nhằm tuân thủ với những điều khoản không liên quan đến thuế quan trong các hiệp định này. Báo cáo ước tính những cải cách này sẽ tạo ra "cú hích năng suất", giúp GDP tăng thêm 6,8% so với kịch bản cơ sở vào năm 2030. Bên cạnh đó, báo cáo chỉ ra rằng Việt Nam cần nâng cao năng lực thực thi ba vấn đề chính bao gồm: Các quy tắc xuất xứ, các biện pháp vệ sinh dịch tễ cho cây trồng và vật nuôi và cơ chế xử lý tranh chấp giữa nhà nước - nhà đầu tư.

Ông Ousmane Dione- Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam- nhận định, nếu hành động kiên quyết nhằm thu hẹp khoảng cách về năng lực triển khai và tính tương thích pháp lý, Việt Nam có thể tận dụng tối đa hiệp định thương mại này, với những lợi ích trực tiếp ước tính ở mức lớn chưa từng có trong lịch sử.

Với Covid- 19 là nút khởi động lại và EVFTA là nút tăng tốc, đây là thời điểm hoàn hảo để theo đuổi những cải cách trong nước sâu rộng hơn"ông Ousmane Dione nói.

Báo cáo cho rằng yêu cầu về quy tắc xuất xứ là một trong những thách thức chính mà Việt Nam phải vượt qua. Ngay cả khi sản phẩm được sản xuất tại Việt Nam, các nhà nhập khẩu EU chưa chắc đã công nhận nguồn gốc đó vì sản phẩm của Việt Nam nói chung còn phụ thuộc nhiều vào nguyên vật liệu nhập khẩu. Bên cạnh đó, trong các ngành chế tạo chế biến xuất khẩu chủ chốt, phần lớn đầu vào vẫn nhập khẩu từ các quốc gia khác, chẳng hạn 62% trong lĩnh vực điện tử và 53% trong lĩnh vực ô tô.

Báo cáo kêu gọi phải tăng cường nỗ lực để cải thiện liên kết giữa các đơn vị cung ứng trong nước với các doanh nghiệp nước ngoài là những công ty đầu đàn trong các chuỗi giá trị lớn trên toàn cầu.

Đồng thời, tiêu chuẩn an toàn thực phẩm chặt chẽ của EU đòi hỏi Việt Nam phải cải thiện các biện pháp vệ sinh dịch tễ một cách minh bạch và nhất quán hơn. Theo một ước tính của WB, chi phí tuân thủ đầy đủ các biện pháp phi thuế quan hiện hành ở Việt Nam có mức thuế suất tương đương là 16,6% (cao hơn so với mức bình quân của khu vực là 5,4%). Với việc EVFTA được phê chuẩn, Việt Nam sẽ là điểm đến của nhiều nhà đầu tư từ EU và trên toàn thế giới. Khi dòng vốn đầu tư nước ngoài tăng lên, số lượng đơn thư khiếu nại thương mại cũng sẽ tăng theo. Báo cáo khuyến nghị, Việt Nam cần đẩy nhanh việc hình thành Cơ chế Xử lý Khiếu nại Đầu tư một cách hệ thống để xử lý tranh chấp giữa nhà nước và nhà đầu tư. Bên cạnh đó, để tối đa hóa lợi ích của EVFTA, các chính sách hỗ trợ khôi phục kinh tế sau Covid-19 cần ưu tiên các ngành hàng chủ chốt chiếm phần lớn kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU.

“Việt Nam cần hoàn thiện khung pháp lý và nâng cao năng lực thực thi để gặt hái đầy đủ lợi ích của Hiệp định EVFTA”, WB khuyến nghị.

Quỳnh Anh, Văn phòng BCĐLNKT