Tin tức

Các chuyên gia kinh tế ở các lĩnh vực khác nhau đều đồng thuận quan điểm rằng thương chiến Mỹ - Trung còn kéo dài với nhiều diễn biến khó lường. Trong bối cảnh đó, doanh nghiệp Việt Nam đứng trước nhiều thách thức hơn nữa, bởi họ sẽ phải linh hoạt hơn, chủ động hơn trong chiến lược kinh doanh, tìm kiếm và phân tích thông tin cũng như đa dạng hóa thị trường.

Khó khăn nhiều hơn thuận lợi

Chia sẻ tại hội thảo chuyên đề “Chiến tranh thương mại leo thang: Mừng, lo của doanh nghiệp Việt?” do Thời báo Kinh tế Sài Gòn phối hợp với Công ty Chứng khoán Yuanta Việt Nam tổ chức hôm nay, 6-9 tại TPHCM, tiến sĩ Phạm Sỹ Thành, Giám đốc chương trình Nghiên cứu Kinh tế Trung Quốc (VCES) thuộc Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách nhận định thương chiến Mỹ - Trung chắc chắn còn kéo dài, luôn leo thang và các mối đe dọa từ trước đến nay có thể trở thành sự thật.

Bằng chứng là từ thời điểm Mỹ bắt đầu áp thuế lên hàng hóa Trung Quốc, từ tháng 6-2018 đến nay, chưa có loại thuế nào được gỡ bỏ hoặc giảm xuống mà chỉ có tăng lên. Bởi lẽ, thương chiến chỉ là một miếng ghép nhỏ trong cuộc chiến lớn hơn mà Mỹ phát động. Các bước đi ngày càng dồn dập và càng khó đoán, kể cả với giới nghiên cứu. “Sẽ khó đi đến thỏa thuận trong năm 2019, thậm chí 2020. Vì Tổng thống Donald Trump không muốn đi đến thỏa thuận nếu không nằm trong kế hoạch của Mỹ. Thương chiến đang làm thay đổi Trung Quốc và nước này sẽ là điểm đến đầy bất trắc (cho nhà đầu tư)”, ông Thành nói.

Trong bối cảnh này, người thắng là các nhà sản xuất có năng lực cạnh tranh trên thị trường nội địa ở mỗi nước (Mỹ, Trung Quốc) cũng như các nhà xuất khẩu đến từ nước thứ ba, chẳng hạn như Việt Nam.

Việt Nam được đánh giá là có thể thay thế được Trung Quốc trong việc xuất khẩu một số mặt hàng vào Mỹ. Truyền thông thế giới cũng từng nói rằng Việt Nam được lợi từ thương chiến.

Tuy nhiên, thực tế lại đang chứng minh điều này không chính xác. Lấy ví dụ như ngành gỗ và sản phẩm gỗ. Xuất khẩu của ngành gỗ vào Mỹ đạt 4 tỉ đô la Mỹ nhưng ở mảng gỗ chế biến, doanh nghiệp Việt Nam chỉ chiếm 43%. Không chỉ vậy, thống kê cho thấy Trung Quốc đang có 23 dự án đầu tư mới trong ngành gỗ, chế biến gỗ ở Việt Nam.

Hay như ở ngành dệt may, Mỹ là thị trường mà doanh nghiệp Việt Nam đang phải chia sẻ với doanh nghiệp Trung Quốc nhiều nhất (Mỹ nhập từ Trung Quốc 40%, từ Việt Nam 15%). Đợt áp thuế mới nhất với 267 tỉ đô la với các mặt hàng tiêu dùng như dệt may, điện thoại… tạo cơ hội cho Việt Nam tăng xuất khẩu. Nhưng hàng xuất khẩu lại chủ yếu là từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

Ông Trương Đình Tuyển, nguyên Bộ trưởng Bộ Thương mại cũng khẳng định, thương chiến Mỹ - Trung sẽ kéo dài trong thời gian không ai đoán định được và cả hai phía đều rất “rắn”. Công cụ dễ thấy nhất là công cụ thuế và không có gì cản trở để các bên nâng thuế, không chỉ là mức 25% như đã công bố.

Ngoài những tác động thuận như Việt Nam có cơ hội tăng xuất khẩu vào Mỹ để thay thế hàng Trung Quốc, đón dòng vốn đầu tư dịch chuyển từ Trung Quốc sang… thì có nhiều tác động tiêu cực.

Đầu tiên là đồng nhân dân tệ hạ giá làm hàng Trung Quốc rẻ hơn, sẽ có sức cạnh tranh hơn ở các thị trường mà Việt Nam cũng xuất khẩu. Khó xuất khẩu sang Mỹ cũng sẽ khiến Trung Quốc tìm đến các thị trường khác, trong đó Việt Nam là thuận lợi nhất. Điều quan ngại là Việt Nam có thể sẽ nhập những công nghệ chất lượng thấp.

Không chỉ vậy, rất có khả năng doanh nghiệp Việt Nam sẽ nhập hàng Trung Quốc về rồi dán nhãn, gia công thêm một số công đoạn đơn giản để xuất khẩu. Điều này làm tăng nguy cơ Việt Nam bị Mỹ đánh thuế. Tổng thống Mỹ đã cảnh báo Việt Nam về điều này khi xuất siêu ngày càng lớn.

Riêng với thị trường tài chính, theo ông Matthew Smith, Giám đốc Nghiên cứu và Phân tích, Công ty Chứng khoán Yuanta Việt Nam, phải đến tháng 8 vừa rồi, những ảnh hưởng của cuộc thương chiến mới thấy được ở Việt Nam. Các nhà đầu tư nước ngoài đã bán ròng, giống như những gì đã xảy ra hồi quí 2-2018.

Bốn quỹ hoán đổi danh mục (ETF) trong quí 3-2019 đều rút tiền và con số rút trong tháng 8 đã lên tới 35 triệu đô la Mỹ, trong khi cả ba quí là 45 triệu đô la. Tuy nhiên, không giống các thị trường mới nổi khác, dòng tiền đổ vào Việt Nam vẫn dương, mức: 249 triệu đô la Mỹ. Và các nhà đầu tư nước ngoài có cái nhìn tích cực về thị trường.

Doanh nghiệp có thể chủ động được những gì?

Trong bối cảnh thương chiến còn dai dẳng như vậy, các chuyên gia khuyến nghị, doanh nghiệp cần tăng cường hoạt động phòng trừ rủi ro để có thể chủ động trong bị động.

Ông Tuyển nhấn mạnh, tình hình thế giới nhiều năm qua vốn đã rất bất định và rủi ro. Với thương chiến, sự bất định và rủi ro càng cao hơn, nhất là nhiều vấn đề khác cũng chưa được giải quyết như Brexit, căng thẳng quan hệ Nhật - Hàn.

Lúc này, theo ông Tuyển, doanh nghiệp nên tìm đến những thị trường có hiệp định thương mại tự do với Việt Nam như châu Âu, Nhật. Đơn giản vì họ đã cam kết trong hiệp định nên sẽ có trách nhiệm thực hiện và sẽ tạo ra sự ổn định cho doanh nghiệp.

“Chúng ta vừa ký EVFTA. Nếu xem châu Âu là một thực thể kinh tế thì đây là thị trường lớn với 500 triệu dân, rất cần đẩy mạnh xuất khẩu, nhất là những khu vực đang bỏ ngỏ như Đông  Âu… để không phụ thuộc vào một thị trường…”, ông Tuyển nói. Đa dạng thị trường cũng là cách để giảm xuất siêu vào Mỹ, giảm nguy cơ bị Mỹ “đánh thuế”.

Ông Thành cho rằng, lâu nay, điểm yếu của doanh nghiệp là thiếu thông tin. Bởi lẽ, chi phí cho việc tìm kiếm, phân tích thông tin là rất lớn. Do vậy, các doanh nghiệp cần thông qua hiệp hội ngành hàng để có được những thông tin về kinh tế vĩ mô, ngành hàng .

Đặc biệt, theo ông Thành, với các hiệp định thương mại đã ký, doanh nghiệp cần quan tâm, lưu ý đến phần phòng vệ thương mại. Đây là xu hướng đang tăng cao và doanh nghiệp khó tự ứng xử, đối phó. Vì vậy, càng cần có vai trò của hiệp hội trong việc tìm kênh thông tin chính xác cũng như có những đề xuất chính sách với Chính phủ.

Chuyên gia của Yuanta Việt Nam cho rằng, cuộc chiến tranh thương mại Mỹ-Trung có liên quan đến cả kinh tế và địa chính trị và khó có giải pháp nhanh chóng hay đơn giản để giải quyết. Các nhà đầu tư chắc chắn sẽ phải xem xét yếu tố này khi đầu tư.

Tất nhiên, để VN Index lên mức 1.100 điểm thì cần nhiều nhà đầu tư quay lại và đầu tư mạnh hơn. “Tôi nhìn thấy họ sẽ quay lại vào quí 4 và sẽ là đối tượng mua ròng chứ không phải bán ròng như tháng 8 vừa qua. Lý do đầu tiên là nhiều quỹ đang nắm giữ nhiều tiền mặt và họ phải mang đi đầu tư để cân đối danh mục. Thứ hai là Fed có chính sách dễ dàng hơn và có lợi hơn cho những thị trường mới nổi như Việt Nam…”, ông Matthew nói.Về triển vọng phía trước, ông này nhận định, chỉ số VN-Index năm 2019 có thể là 1.100 điểm. Cơ sở là khối lượng giao dịch đang tăng khá, không chỉ nhà đầu tư nước ngoài mà cả trong nước tham gia thị trường.

MT